Người sinh con thứ 3 không bị xử phạt hành chính

Theo quy định pháp luật hiện hành, người sinh con thứ ba không bị áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính.

Hỏi: Hiện vợ chồng tôi sắp sinh thêm con thứ ba. Tôi được biết, việc sinh con thứ ba là vi phạm pháp luật và dân số và kế hoạch hóa gia đình. Vậy cụ thể quy định này như thế nào? Hành vi sinh con thứ ba có bị xử phạt không? (Võ Giang phường Trung Tự, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội)

n

>>>Luật sư tư vấnpháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 19006198

Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Giám đốc Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh số 08/2008/PL-UBTVQH12 ngày 27.12.2008, sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số năm 2003, quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Theo đó, mỗi cặp vợ chồng, cá nhân chỉ được phép sinh một hoặc hai con trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định.

Trường hợp đặc biệt này được quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 7 Điều 2 Nghị định số 20/2010/NĐ-CP ngày 08.3.2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh dân số và Điều 1 Nghị định số 18/2011/NĐ-CP ngày 17/3/2011 của Chính phủ sửa đổi khoản 6 Điều 2 Nghị định số 20/2010/NĐ-CP ngày 08.3.2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh dân số về những trường hợp không vi phạm quy định sinh một hoặc hai con. Cụ thể là các trường hợp sau:

(i) Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân (tỷ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỷ lệ chết) theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(ii) Cặp vợ chồng sinh con lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên;
(iii) Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên;
(iv) Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi;
(v) Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được Hội đồng Giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận;
(vi) Cặp vợ chồng đã có con riêng (con đẻ): Sinh một con hoặc hai con, nếu một trong hai người đã có con riêng (con đẻ); Sinh một con hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng (con đẻ). Quy định này không áp dụng cho trường hợp hai người đã từng có hai con chung trở lên và các con hiện đang còn sống;
(vii) Phụ nữ chưa kết hôn sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh.

Căn cứ quy định pháp luật nêu trên, việc sinh con thứ ba của anh chị, nếu không thuộc các trường hợp không vi phạm quy định sinh một hoặc hai con trên, là vi phạm pháp luật về dân số và kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản.

Tuy nhiên, theo quy định pháp luật hiện hành, hành vi sinh con thứ ba không bị áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 2 điều 2 Nghị định 114/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03.10.2006 quy định xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em, trường hợp người dân sinh con thứ ba trở lên thì bị xử lý theo quy định của hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, xóm, cụm dân cư nơi cư trú. Nhưng theo quy định tại Nghị định 176/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14.11.2013 (quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, thay thế Nghị định 114/2006/NĐ-CP) thì không đề cập đến việc xử lý đối với hành vi sinh con thứ ba. Các văn bản pháp luật khác cũng không có quy định về bất kỳ hình thức xử phạt nào đối với người dân có hành vi sinh con thứ ba.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.