-->

Người lao động không bàn giao lại công việc khi nghỉ có bị công ty kiện không?

Trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc một trong các quy định tại khoản 2 Điều 11 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP, được coi là đã thực hiện đúng nghĩa vụ báo trước, nghĩa là người lao động đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng luật.

Hỏi:Tôi vừa mới ký hợp đồng lao động có thời hạn 12 tháng với công ty. Nhưng mới làm việc được 02 tháng, thì vì lý do gia đình tôi viết đơn xin nghỉ việc. Tuy nhiên, tới 40 ngày sau khi tôi có đơn, công ty vẫn chưa bố trí được người bàn giao, nên đến ngày thứ 41, tôi đã nghỉ việc. Hiện tại, công ty có công văn gửi tôi, báo tôi phải bàn giao sổ sách, vì tôi đã tự ý nghỉ việc. Tuy nhiên, tôi không sắp xếp được thời gian, nên không thể tới công ty để bàn giao. Phòng nhân sự có gọi điện, nói nếu tôi không đến sẽ khởi kiện tôi ra tòa. Xin hỏi, trong trường hợp này công ty có thể kiện tôi được không? (Lê Anh - Hà Nội)

Luật sư tư vấn pháp luật lao động - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài (24/7): 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật lao động - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài (24/7): 1900 6198


Luật gia Âu Thị Minh Nguyệt - Phòng Tư vấn doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động như sau:

"1- Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây: (a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động; (b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động; (c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động; (d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động; (đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước; (e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền; (g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.

2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước: (a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này; (b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này; (c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này"
(
Điều 37).

Trường hợp của anh (chị), với hợp đồng lao động có thời hạn 12 tháng, anh (chị) chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do gia đình, tuy nhiên anh (chị) cần phải chứng minh được là gia đình có hoàn cảnh khó khăn thuộc một trong các trường hợp quy định tại Nghị định số 05/2015/NĐ-CP, đó là các trường hợp sau đây:

"Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động tại Điểm d Khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Lao động trong các trường hợp sau đây: (a) Phải nghỉ việc để chăm sóc vợ hoặc chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố vợ, mẹ vợ hoặc bố chồng, mẹ chồng, con đẻ, con nuôi bị ốm đau, tai nạn; (b) Khi ra nước ngoài sinh sống hoặc làm việc; (c) Gia đình gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh hoặc chuyển chỗ ở mà người lao động đã tìm mọi biện pháp nhưng không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động"
(khoản 2 Điều 11).

Luật gia Âu Thị Minh Nguyệt - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Luật gia Âu Thị Minh Nguyệt - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Như vậy:

- Nếu trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của anh (chị) thuộc một trong các quy định tại khoản 2 Điều 11 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP nêu trên và thực hiện đúng nghĩa vụ báo trước - anh (chị) đã báo trước 40 ngày được coi là đã thực hiện đúng nghĩa vụ báo trước - thì việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của anh (chị) là đúng pháp luật.

Tuy nhiên, công ty yêu cầu anh (chị) đến bàn giao sổ sách nhưng không sắp xếp được thời gian, nếu chỉ dừng lại ở mức này thì công ty không có căn cứ để khởi kiện, do anh (chị) đã làm đến ngày thứ 40 để chờ bàn giao mà công ty không sắp xếp người đến bàn giao công việc nên công ty không có căn cứ để khởi kiện anh (chị).

Trường hợp do không bàn giao sổ sách mà dẫn đến có thiệt hại xảy ra, thì phải xác định mức độ lỗi và nội quy công ty. Trong trường hợp này, do anh (chị) chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật, do công ty không cử người nhận bàn giao nên lỗi thuộc về công ty, tuy nhiên khi công ty đề nghị anh (chị) đến bàn giao công việc thì thời gian công ty gọi bàn giao này có nằm trong nội quy công ty không? Nếu nội quy công ty có quy đinh về thời hạn bàn giao khi nghỉ việc thì anh (chị) phải thực hiện theo thời hạn đó. Nếu không thực hiện mà gây ra thiệt hại, thì anh (chị) phải bồi thường tương ứng với mức độ lỗi. Còn nếu trong nội quy công ty không quy định, hoặc đã quá thời hạn trong nội quy thì công ty phải chịu trách nhiệm về việc thiệt hại đó.

- Trường hợp anh (chị) đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không thuộc các quy định trên thì việc chấm dứt hợp đồng lao động của anh (chị) bị coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Nếu không thực hiện việc bồi thường cho công ty theo quy định tại Điều 43 BLLĐ, thì công ty hoàn toàn có thể khởi kiện anh (chị).

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực lao động (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail:[email protected].