Điều 50 Luật thương mại 2005 quy định cụ thể về thanh toán.
Hỏi: Năm 2011, Công ty A có ký hợp đồng mua bán vật liệu với công ty em để thi công xây dưng 1 tòa nhà (nhưng trong hợp đồng lại không ghi ngày tháng, đã có chữ ký của giám đốc 2 bên). Bên cạnh đó, công ty A cũng ký hợp đồng liên doanh với công ty B cùng xây dựng tòa nhà đó (Công ty B đã có hợp đồng mua bán vật liệu với công ty em từ trước).Trong năm, công ty em có giao hàng và xuất hóa đơn cho công ty A (người nhận là người của công ty B). Tổng giá trị giao hàng là 1,7 tỷ. Công ty A có thanh toán bằng chuyển khoản cho công ty em 1 tỷ. Còn nợ 700 triệu, công ty em nhiều lần gửi đối chiếu công nợ và yêu cầu thanh toán xuống công ty A nhưng không thấy phản hồi cũng như gửi lại đối chiếu công nợ. Đến nay, bên công ty A thay đổi giám đốc và cử người đến yêu cầu làm rõ sự việc mua bán giữa hai bên. Và nói là công ty A chỉ nhận được số liệu hàng hóa là 1 tỷ còn 700 triệu thì không được nhận. Trong khi đó hóa đơn đã xuất từ năm 2011 với tổng số tiền hàng là 1.7 tỷ, đã lập báo cáo tài chính. Vậy luật sư cho em hỏi trong trường hợp này, công ty em nên làm gì để giải quyết vấn đề tranh chấp giữa hai bên và đòi được số nợ trên? (Thảo Nguyên - Bắc Ninh)
Luật gia Nguyễn Bảo An- Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest- trả lời:
Điều 50 Luật thương mại 2005 quy định về thanh toán như sau:
"1.Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận.
2.Bên mua phải tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật.
3.Bên mua vẫn phải thanh toán tiền mua hàng trong trường hợp hàng hoá mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua, trừ trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra".
Trong trường hợp công ty bạn có chứng cứ rõ ràng chứng minh được công ty A đang nợ của công ty bạn 700 triệu đồng và công ty A cố tình không trả số tiền đó, công ty bạn quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc công ty A phải thanh toán khoản nợ căn cứ vào Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp như sau: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”.
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận