-->

Không viết đơn xin nghỉ việc, chỉ báo bằng lời có được nghỉ việc không?

Việc chỉ báo bằng lời mà không gửi đơn xin nghỉ việc không được chấp nhận là hình thức báo trước khi nghỉ việc,

Hỏi: Tôi làm việc trong một công ty, thời gian học việc là 10 ngày (30.000đ/ngày). Và sau đó tôi bắt đầu làm chính thức được 10 ngày, tôi cũng gặp một ít khó khăn trong công việc, cùng với áp lực gia đình, vì đó là công ty chăm sóc khách hàng, hưởng lương theo thành quả, tôi cũng thấy mình không phù hợp với công việc, nên sau 10 ngày tôi đã nghỉ việc và chỉ báo cho tổ trưởng mà không gửi đơn xin nghỉ việc. Sau khi nghỉ việc 2 ngày tôi nhận được lời đe dọa từ phía công ty. Họ nói sẽ thưa kiện tôi và bắt bồi thường vì đã nghỉ ngang không báo trước. Nhưng trên thực tế từ khi vào làm tôi chưa hề được công ty cho ký hợp đồng gì hết. và hiện tại tôi cũng không hề nhận được 1 đồng lương nào từ công ty. Tôi nghĩ đơn giản khi tôi nghỉ ngang thì tôi chấp nhận mất hết lương nhưng tôi không nghỉ là mình có vi phạm luật lao động hay không. Đến khi nhận được lời đe dọa thì tôi thật sự ngỡ ngàng. Kính mong quý luật sư giải đáp thắc mắc của tôi? (Oanh Đơn - Thanh Hóa)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (26/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Minh Anh - Tổ tư vấn pháp luật Lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Căn cứ Điều 16 Bộ luật Lao động 2012 về hình thức hợp đồng lao động như sau:

1. Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Đối với công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng, các bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói”.

Như vậy, không phải trường hợp nào hợp đồng lao động cũng bắt buộc phải lập thành văn bản. Trong trường hợp công ty chấp nhận cho bạn thử việc trong 10 ngày, sau 10 ngày thử việc đó công ty tiếp tục để bạn làm việc và trả lương thì lúc đó hợp đồng lao động đã được hình thành. Trong trường hợp bạn có lý do chính đáng, bạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Căn cứ vào Điều 37 Bộ luật lao động như sau:

1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:

a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;

d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;

đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;

e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;

g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.

2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:

a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;

b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;

c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.

3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này”.

Như vậy, vì bạn có lý do là bản thân và gia đình gặp khó khăn không thể tiếp tục làm việc, bạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Tuy nhiên việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của bạn phải đúng pháp luật. Khi chấm dứt hợp đồng, bạn có nghĩa vụ phải báo trước cho người sử dụng lao động biết. Khoản 2 Điều 3 Bộ luật lao động về giải thích từ ngữ có định nghĩa "người sử dụng lao động" như sau: “Trong Bộ luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau: 2. Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động; nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”.

Như vậy, việc bạn chỉ báo cho tổ trưởng không được coi là đã báo cho người sử dụng lao động. Hơn nữa bạn chỉ thông báo cho tổ trưởng rồi nghỉ việc luôn cũng vi phạm nghĩa vụ báo trước khi chấm dứt hợp đồng lao động. Trường hợp của bạn, bạn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Khi đó bạn phải có nghĩa vụ bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền lương tương ứng với tiền lương của bạn trong những ngày không báo trước theo quy định tại Điều 43 Bộ luật lao động:

1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này”.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.