Các quan hệ trong xã hội hiện đại đều là những sự thỏa thuận, đa dạng từ đơn giản tới phức tạp, dù vì mục đích kinh doanh hay chỉ để đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thôgn thường. Chính vì thế, chế định về hợp đồng luôn đóng vai trò quan trọng trong luật Dân sự Việt Nam.
Mục đích của pháp luật về hợp đồng là nhằm bảo vệ quyền tự do ý chí của các bên. Quyền tự do ý chí này chỉ bị hạn chế bởi một số trường hợp như nhằm bảo vệ trật tự công hoặc quyền lợi hợp pháp của bên thứ ba.
Pháp luật về Hợp đồng của Việt Nam hiện nay được quy định cơ bản trong Bộ luật Dân sự 2015 từ Điều 385 đến Điều 569 (trong mục 7, Chương XV, Phần thứ Ba: "Nghĩa vụ và Hợp đồng") và rải rác trong Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh Bảo hiểm,... và các văn bản pháp luật chuyên ngành, các văn bản dưới Luật như Nghị định, thông tư, văn bản hướng dẫn...
Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự được coi là văn bản gốc, quy định các vấn đề chung về hợp đồng, là nền tảng cho pháp luật về hợp đồng, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được xác lập trên các nguyên tắc cơ bản của hợp đồng là bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm.
Các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự được áp dụng chung cho tất cả các loại hợp đồng, không phân biệt hợp đồng dân sự hay hợp đồng kinh tế, hợp đồng có mục đích kinh doanh hay hợp đồng nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Trên cơ sở các quy định chung về hợp đồng của Bộ luật Dân sự, tuỳ vào tính chất đặc thù của các mối quan hệ hoặc các giao dịch, các luật chuyên ngành có thể có những quy định riêng về hợp đồng để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực đó. Các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự được coi là các quy định chung còn các quy định về hợp đồng trong các luật chuyên ngành được coi là các quy định chuyên ngành và các quy định này được ưu tiên áp dụng.
Bộ luật Dân sự 2015 được ban hành và đã có hiệu lực hơn 1 năm nay đã tiếp tục phát huy được các ưu điểm của Bộ luật Dân sự 2005 trước đây, đồng thời tiếp thu và sửa đổi, bổ sung để bắt kịp với thực tiễn các quan hệ pháp lý diễn ra trong xã hội hiện nay, hiện thực hóa được các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước, đồng thời đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu.
Các bên giao kết và thực hiện hợp đồng dưới sự tự nguyện, tự do thỏa thuận nhưng không vi phạm các điều cấm của luật hiện hành. Các bên tự do lựa chọn đối tượng giao kết, hình thức hợp đồng, nội dung thực hiện hợp đồng và trách nhiệm của các bên.
Trong bài viết này, tác giả chủ yếu đề cập đến pháp luật điều chỉnh Hợp đồng thương mại được ký kết giữa các thương nhân hoặc ít nhất một trong các bên giao kết hợp đồng là thương nhân, ký kết hợp đồng vì mục đích thương mại.
Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 quy định những vấn đề cơ bản cần có trong Hợp đồng thương mại như: về quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên, điều khoản cơ bản cần có trong hợp đồng, điều khoản phạt/mức phạt hợp đồng, điều kiện bất khả kháng, mức lãi suất trần có thể áp dụng trong hợp đồng tại một số trường hợp.
Khái niệm hợp đồng - Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015
"Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự".
Như vậy hợp đồng được hiểu là sự thể hiện ý chí của các bên bằng việc thoả thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của các bên, xác định khi nào và trong điều kiện nào thì các quyền và nghĩa vụ này được xác lập, được thay đổi và chấm dứt.
Chủ thể của hợp đồng có thể là cá nhân hoặc pháp nhân hoặc các loại chủ thể khác.
Đối tượng của hợp đồng là tài sản, hàng hóa, dịch vụ.
Nguyên tắc tối quan trọng của hợp đồng là nguyên tắc tự do thoả thuận, bình đẳng và thiện chí trong việc giao kết, thực hiện hợp đồng, không phân biệt mục đích của các chủ thể khi giao kết hợp đồng là thương mại hay sinh hoạt - tiêu dùng.
Hình thức của Hợp đồng
Các bên có quyền tự do quyết định hình thức của hợp đồng, có thể bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể, trừ những trường hợp pháp luật chuyên ngành yêu cầu hợp đồng phải được thể hiện bằng một hình thức cụ thể nào đó. Ví dụ hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất phải được thể hiện bằng văn bản.
Bên cạnh việc quy định hợp đồng phải được thể hiện dưới một/một số dạng nhất định, một số quy định pháp luật chuyên ngành còn yêu cầu hợp đồng phải đáp ứng được một số tiêu chí khác ví dụ được công chứng/chứng thực...
Ký kết hợp đồng và ủy quyền ký kết hợp đồng
Bộ luật Dân sự 2015 vẫn tiếp nối tư tưởng của Bộ luật Dân sự 2005 trong chế định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm các bên giao kết hợp đồng, mà không phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng. Điều đó cũng có thể hiểu thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào hợp đồng.
Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp thuận đề nghị giao kết hợp đồng của bên được đề nghị, hoặc khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị không có trả lời từ chối, áp dụng cho cả hợp đồng bằng văn bản hoặc lời nói, hoặc các hình thức - các quy định này trong Bộ luật Dân sự rất phù hợp với quy định pháp luật quốc tế, phù hợp với tập quán thương mại quốc tế.
Trong một số trường hợp, thời điểm hợp đồng có hiệu lực không cùng với thời điểm hợp đồng được ký kết do có sự thỏa thuận của các bên về thời điểm hợp đồng có hiệu lực hoặc do pháp luật chuyên ngành có quy định, Ví dụ Luật Đấu thầu...
Về vấn đề ủy quyền ký kết hợp đồng
Vấn đề uỷ quyền ký kết hợp đồng không được BLDS quy định cụ thể, tuy nhiên, vì hợp đồng là một dạng của giao dịch dân sự cho nên có thể áp dụng các quy định về việc uỷ quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Theo đó cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác xác lập, thực hiện hợp đồng theo chế định người đại diện.
Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Theo quy định của Điều 401 Bộ luật Dân sự 2015: "Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác".
Tuy nhiên lại không giải thích khái niệm "được giao kết hợp pháp" là gì mà khi nghiên cứu, chúng ta cần dựa vào Điều 117 BLDS 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự để cắt nghĩa. Bởi hợp đồng thực chất chỉ là một trong những hình thức của giao dịch dân sự:
"1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội".
Như vậy, khi hợp đồng có đủ 3 điều kiện trên thì sẽ có hiệu lực trừ một số trường hợp mà pháp luật yêu cầu hợp đồng phải tuân theo một hình thức nhất định.
Điều kiện vô hiệu của hợp đồng
Theo quy định của Điều 407 BLDS 2015 thì vấn đề hợp đồng vô hiệu sẽ được áp dụng theo các quy định như giao dịch dân sự vô hiệuĐiều 123 đến Điều 133BLDS bao gồm các trường hợp sau:
- Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
- Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
- Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
Vì là một dạng giao dịch dân sự, nên hợp đồng có thể bị vô hiệu một phần hoặc toàn bộ như giao dịch dân sự. Các trường hợp quy định giao dịch dân sự vô hiệu cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý.
Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu cũng được quy định tại Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu:
"1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định".
Hủy bỏ hợp đồng
Hủy bỏ hợp đồng mà không phải bồi thường thiệu hại trong các trường hợp:
- Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;
- Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng - Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
- Trường hợp khác do luật quy định
BLDS 2015 đã quy định nhưng không bó hẹp trong hai trường hợp đầu, mà để ngỏ một phần cho các trường hợp khác.
Trong trường hợp bên hủy bỏ mà không thông báo cho bên kia, nếu để xảy ra thiệt hại do không thông báo thì bên hủy hợp đồng sẽ phải bồi thường.
Theo đó, trường hợp chậm thông báo mà việc chậm thông báo khiến cho bên bị hủy bỏ hợp đồng thiệt hại thì có phải bồi thường không? vì trên thực tế có thiệt hại xảy ra
Hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp:
- Đã được hoàn thành;
- Theo thỏa thuận của các bên;
- Chủ thể giao kết hợp đồng chết/chấm dứt tồn tại;
- Bị hủy bỏ/đơn phương chấm dứt thực hiện;
- Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn;
- Hoàn cảnh thay đổi cơ bản - đây là một quy định mới so với BLDS 2005 trong chế định về hợp đồng.
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Trách nhiệm của bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng:
Ngoài các chế định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, pháp luật tạo điều kiện cho các bên được tự do thoả thuận về trách nhiệm của bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng theo đó bên vi phạm phải trả một khoản tiền cho bên bị vi phạm, mức phạt này do các bên tự thoả thuận. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm vừa phải bồi thường thiệt hại. Nếu các bên không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Về nguyên tắc, bên vi phạm chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm nếu các bên không có thoả thuận về việc bồi thường thiệt hại. Về vấn đề này, Luật Thương mại 2005 lại có quy định khác so với BLDS. Theo Khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại thì “trường hợp các bên có thoả thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Trừ một số trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật Thương mại, thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn được đặt ra khi có đủ các yếu tố như: có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng
"Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm". Điều 429 BLDS 2015 đã tăng thêm 1 năm so với thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng so với BLDS 2005.
Về biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng
Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng được quy định trong BLDS bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản (bao gồm cả cầm cố, thế chấp bằng tài sản của người thứ ba), đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp. Theo các quy định của pháp luật hiện hành thì các bên trong hợp đồng có quyền tự chủ, tự do cam kết và tự do thoả thuận đồng thời các bên cũng phải tự chịu trách nhiệm đối với các cam kết, thoả thuận của mình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng cầm cố, thế chấp và bảo lãnh. Các bên có thể linh hoạt hơn và tự chủ hơn trong việc xử lý các tình huống phát sinh
Trong số các biện pháp thực hiện nghĩa vụ dân sự thì các biện pháp cầm cố và thế chấp thường được các bên áp dụng nhiều nhất, pháp luật dân sự về các biện pháp đảm bảo này cũng được cụ thể và rõ ràng hơn.
Trên đây là một số kiến thức sơ lược về vấn đề hợp đồng - những vấn đề cơ bản mà doanh nghiệp cần nắm được trong bước đầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống mẫu hợp đồng của mình, phục vụ vào hoạt động kinh doanh, hợp tác của doanh nghiệp.
Luật gia Nguyễn Thị Liên - Phòng Dân sự - Thương mại của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài 1900 6198,tổng hợp.
Khuyến nghị:
- Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại, mà chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu khoa học, hoặc phổ biến kiến thức pháp luật;
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi đây có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected], [email protected]
Bình luận