Hợp đồng mua bán đất chỉ có hiệu lực khi được công chứng chứng thực.
Hỏi:Từ năm 2002 tôi có mua của chị chồng tôi 1 mảnh đất nhưng chỉ viết giấy tay cho tôi đến năm 2004 tôi bán cho anh H và tôi chỉ viết giấy tay cho anh H và anh cũng không đòi hỏi tách sổ. Đến năm 2012 thì chị chồng tôi làm sổ đỏ trong đó có cả mảnh đất tôi đã bán cho anh H. Bây giờ anh H đi làm sổ đỏ thì không làm được đã quay lại kiện tôi và chị chồng tôi. Xin hỏi Luật sư, tôi nên làm gì? (Phạm Thành - Thanh Hóa)
Theo thông tin bạn cung cấp, năm 2002 bạn có mua đất của chị gái chồng bạn, tuy nhiên, hợp đồng chỉ viết tay không có công chứng hoặc chứng thực. Thời điểm đó cần phải thực hiện theo quy định của pháp luật tại thời điểm đó. Cụ thể:
Điều 707 Bộ luật dân sự 1995 quy định về hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất như sau:
"Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, phải được làm thủ tục và đăng ký tại Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai."
Đồng thời,tại Khoản 2 Điều 31 Luật đất đai 1993 quy định:"Thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở nông thôn làm tại Uỷ ban nhân dân huyện; ở đô thị làm tại Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương."
Vì khi bán đất cho bạn, bạn chỉ có giấyviết tay từ chị mình thể hiệnsự thỏa thuận giữa hai người, nhưng lại không có hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất được công chứng, chứng thực nên theo quy định pháp luật thì hợp đồng mua bán này vô hiệu. Vì vậy, theo quy định tại Khoản 2 Điều 138 Bộ luật Dân sự 2005 thì giao dịch giữa bạn và anh H cũng sẽ bị coi là vô hiệu.
Khoản 2 Điều 138 Bộ luật Dân sự 2005 quy định:
“Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.”
Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 2 Điều 137 Bộ luật dân sự 2005 thì:
"2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật.Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.”
Như vậy, giữa bạn, chị của bạn và anh H sẽ phải khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận