Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế
Hỏi: Cha mẹ tôi có 1 nền đất 200m2, cất nhà bằng cây lá thô sơ trên nền đất 200m2 này. Cha tôi mất năm 1965 không để lại di chúc (cha mẹ tôi có 3 con trai). Đến năm 1970, mẹ tôi có chồng khác và sanh 2 con gái. Năm 1991, vợ chồng thằng út nuôi mẹ tôi đến ngày hôm nay. Năm 2000, thằng út phá bỏ nhà cũ thô sơ xây lại nhà mới bằng tường kiên cố. Cách đây khoảng 5 năm (2011), mẹ tôi đã sang tên chủ quyền nhà và đất ở (200m2) cho thằng út đứng tên chủ quyền và sở hữu. Nay anh cả phản đối đòi chia đều cho cả 3 người con trai nền đất 200m2 đó. Vậy xin luật sư cho tôi được biết về pháp lý anh cả tôi đòi hỏi vậy có đúng không? (Vũ Nhung - Hải Dương)
Theo thông tin bạn cung cấp thì gia đình bạn gồm bố, mẹvà 3 người anh em, tài sản lànền đất 200m2. Sau khi bố bạn mất thời điểm 1965 không có di chúc nên phần tài sản 200m2 đất sẽ chia đôi cho bố và mẹ bạn mỗi người được hưởng một nửa giá trị. Trong đó, phần di sản của bố bạn (100m2 nền đất) sẽ được chia theo pháp luật cho những người thừa kế. Cụ thể, Bộ luật dân sự 2005:
Điều 675 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về những trường hợp thừa kế theo pháp luật như sau:
"1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản".
Điều 676Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:
"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
Theo đó, việc mẹ bạn chuyển nhượng toàn bộ 200m2 nền đất cho người con út là không có căn cứ và việc anh cả yêu cầu chia phần di sản là hoàn toàn hợp pháp. Tuy nhiên, cần xác định yêu cầu chia di sản trong trường hợp này chỉ áp dụng đối với 100m2 nền đất thuộc quyền sở hữu của bố bạn, 100m2 nền đất còn lại của mẹ bạn sẽ có toàn quyền định đoạt việc chuyển nhượng, cho tặng, thành viên khác không có quyền yêu cầu chia hay kiện đòi.
-Thứ hai, thời hiệu khởi kiện:
Điều 645Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau:
"Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Như vậy, theo quy định trên thì thời hiệu khởi kiện tối đa 10 năm, từ thời điểm mở thừa kế. Nhưng bố bạn mất từ 1965 đến nay đã 51 năm, anh cả bạn mới yêu cầu chia thì đã hết thời hiệu nên sẽ không được giải quyết. Tuy nhiên, nếu sau thời hiệu khởi kiện ( 10 năm)mà các thành viên trong gia đình bạnxác nhậnkhông có tranh chấp và đều thừa nhận di sản do bốđể lại chưa chia thì di sản đó (100m2 nền đất) sẽ được chuyển thànhtài sảnchung của cácthừa kế nênkhông áp dụng thời hiệu khởi kiện. Do đó, thời điểm hiện nay anh cả bạn làm đơn yêu cầu thì vẫn được giải quyết.Cụ thể, Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP Quy định:
"2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
a. Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:
a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
b. Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản".
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận