-->

Đi xe lạng lách, đánh võng có bị phạt tù không?

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì hành vi lạng lách đánh võng sẽ bị xử lý theo các mức cụ thể với từng hành vi cụ thể như sau:...

Hỏi: Anh A đi xe lạng lách đánh võng bị giữ xe. Cơ quan số 7 Hồ Thuyền Quang có mời lên làm việc và bắt anh A kí vào biên bản lạng lách đánh võng gây mất trật tự. Vậy anh A chỉ bị phạt hành chính thôi hay có bị hình sự gì không? Và cho em hỏi mức xử phạt là bao nhiêu? (Nguyễn Hải - Hà Nội)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật tố tụng của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Cơ sở pháp lý: Nghị đinh số 71/2012/NĐ-CP

"Theo quy định của pháp luật hiện hành thì hành vi lạng lách đánh võng sẽ bị xử lý theo các mức cụ thể với từng hành vi cụ thể như sau:

- Phạt tiền từ 8.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với người điều khiển xe vi phạm hành vi sau đây:

Điều khiển xe lạng lách, đánh võng; chạy quá tốc độ đuổi nhau trên đường bộ;

- Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với người điều khiển xe vi phạm hành vi sau đây:

Điều khiển xe lạng lách hoặc đánh võng trên đường bộ trong, ngoài đô thị;

- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 14.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm này mà gây tai nạn hoặc không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của người thi hành công vụ hoặc chống người thi hành công vụ".

Như vậy bạn có thể đối chiếu về hành vi của mình để xác đinh mức phạt hành chính́nh mà bạn phải nộp phạt. Hành vi này chỉ bị xử phạt hành chính mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ý kiến bổ sung:

Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến mục hỏi – đáp của công ty chúng tôi. Thắc mặc của bạn được tư vấn như sau:

Cơ sở pháp lý: Bộ luật hình sự năm 1999.

- Nghị định 34/2010/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ

- Khoản 7 Điều 8 Nghị định 34/2010/NĐ-CP quy định: “Phạt tiền từ 8.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng đối với hành vi điều khiển xe lạng lách, đánh võng; chạy quá tốc độ đuổi nhau trên đường bộ”

Theo đó nếu hành vi điều khiển xe lạng lách, đánh vọng của anh A chưa gây hậu quả nghiêm trọng đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự thì anh A chỉ bị xử phạt hành chính với mức phạt từ 8 triệu đến 12 triệu đồng.

Mặt khác, tại Điều 202 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: “202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

"1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;

c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật tố tụng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.