Hỏi: Trường hợp của vợ em kí hợp đồng lao động 1 năm lần 1 vào ngày 15/06 / 2014 . Lần 2 cũng 1 năm vào ngày 15/06/20151 ) Vợ em bắt đầu nghỉ sinh là ngày 14/09 /2015 đến nay 20/02/2016 phòng HCNS có gọi điện yêu cầu đi làm vào ngày 22/02/2016.2) Phải làm ca : tức là làm 1 tuần ngày sau đó lại đổi 1 tuần làm đêm. Vợ em có đưa ra ý kiến là bây giờ con nhỏ chưa thể làm đêm được thì Giám Đốc nói nếu thế thì sẽ không được tiếp tục làm nữa.3) Hiện tại công ty của vợ em có tới 2/3 số người lao động làm việc ở đây từ 6 tháng cho tới hơn 1 năm mà vẫn chưa được kí hợp đồng lao động. Vậy em xin hỏi công ty làm như thế có đúng không và nếu sai thì chúng em phải làm gì để bảo vệ quyền lợi và lợi ích của mình? ( Đào Văn Thái - Hải Phòng)
Luật
gia Phạm Thị Mai Phương – Tổ tư vấn pháp luật Lao động – Công ty Luật TNHH Everest – trả
lời:
Thứ nhất,về trường hợp công ty chấm dứt hợp đồng lao động với vợ bạn vì lý do không đáp ứng được ca làm tại công ty.
Theo như quy định tại Bộ luật lao động 2012 về những trường hợp được chấm dứt hợp đồng lao động như sau:
"1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;
b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;
c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này."
Như vậy,có thể thấy, trường hợp của vợ bạn sẽ không thuộc quy định nào trong các quy định nêu trên nên phía công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đang là trái pháp luật. Ngoài ra, bạn cần xem xét lại hợp đồng lao động của vợ bạn về thời gian làm việc ban đầu và khi đổi ca xem có tương xứng hay không, bởi lẽ, nếu như có thay đổi về ca làm việc cũng như nội dung công việc thì công ty phải có thỏa thuận với người lao động và phải có sự đồng ý của người lao động chứ không được tùy tiện thay đổi và chấm dứt hợp đồng lao động như vậy.
Thứ hai,về những trường hợp công ty không ký hợp đồng lao động. Theo quy định tại Bộ luật lao động 2012 thì chỉ những trường hợp có công việc tạm thời với thời hạn dưới 03 tháng thì mới có thể được giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói như sau:
Điều 16. Hình thức hợp đồng lao động
1. Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Đối với công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng, các bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói.
Như vậy, với những hợp đồng như bạn nêu trên từ 6 tháng trở lên mà phía công ty không ký hợp đồng là không phù hợp với quy định của pháp luật. Vậy nên, với cả trường hợp của vợ bạn và trường hợp của các công nhân khác không được ký hợp đồng thì có thể làm đơn gửi lên phía công ty hoặc bên công đoàn ( tại công ty hoặc công đoàn cấp trên trực tiếp) để nhận được giải quyết, nếu như không được giải quyết hoặc giải quyết nhưng không phù hợp với ý chí của các bên thì có thể tiếp tục làm đơn gửi lên Phòng Lao động thương binh và Xã hội hoặc khởi kiện lên Tòa án để được giải quyết chế độ phù hợp.
Khuyến nghị:
- Để
có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các
Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp
luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội
dung bài tư vấn pháp luật hành chính mà Công ty Luật TNHH Everest cung
cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các
điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã
được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó,
Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường
hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận