Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác.
Hỏi: Công ty tôi thành lập tháng 10/2015, hiện có 5 cổ đông sáng lập mỗi người chiếm 20% cổ phần, theo đăng ký kinh doanh mỗi cổ đông sáng lập sẽ phải góp vốn là 2 tỷ đồng tuy nhiên các cổ đông mới đóng được 200 triệu. Vì một vài lý do, có 2 cổ đông xin rút vốn, cổ đông sáng lập khác đồng ý mua lại vốn góp của 2 cổ đông kia. Đề nghị Luật sư tư vấn: Thủ tục mua lại cổ phần và phải làm hợp đồng giá mua lại cổ phần như thế nào (vì thực tế cổ đông kia mới đóng 200 triệu đồng). (Phượng Anh)
Luật gia Khương Thị Thu Hà - Tổ tư vấn luật Doanh nghiệp Công ly Luật TNHH Everest - trả lời:
Khoản 3 Điều 119 Luật Doanh nghiệp quy định như sau:
“Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó."
Từ những quy định trên, cổ đông sáng lập trong công ty anh (chị) được quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác với mức giá thỏa thuận giữa hai bên.
Anh (chị) làm hợp đồng chuyển nhượng: Bên mua mua lại toàn bộ số cổ phần của bên bán trong công ty (20% tổng số cổ phần của công ty) với giá là 200 triệu (tương ứng với số tiền đã góp) hoặc một mức tiền khác do hai bên thỏa thuận.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail:[email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật doanh nghiệp mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận