-->

Có được tặng cho bất động sản khi là tài sản chung không?

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Hỏi: ​Ngày trước bố tôi lập gia đình với mẹ thứ nhất và sinh được 2 người con gái. Sau đó bố tôi đi bộ đội, khi giải phóng bố tôi về quê và lấy mẹ tôi (mẹ thứ 2), sinh được 3 người con (tôi là con trai và 2 chị gái) tổng cộng bố tôi có 5 người con (4 gái và 1 trai là tôi). Bố tôi có một mảnh đất nhỏ. Cả bố và 2 mẹ đang sống trên mảnh đất đó (mảnh đất đứng tên bố tôi). Xin hỏi Luật sư, nếu bây giờ bố tôi muốn cho tôi mảnh đất đó thì liệu có cần sự thông qua của mẹ thứ nhất và 2 chị là con của mẹ thứ nhất không. Vì hiện tại sổ hộ khẩu gia đình chỉ gồm có bố, mẹ thứ 2, hai chị gái (con của mẹ thứ 2 đã đi lấy chồng, đã chuyển khẩu) và tôi là con trai út. Mẹ thứ nhất đang được tách là một hộ riêng lẻ (mẹ thứ nhất một sổ hộ khẩu khác). Theo như anh trình bày thì đất không phải là đất cấp cho hộ gia đình, vì vậy sổ hộ khẩu không có ý nghĩa để xác định ai là chủ sở hữu mảnh đất. Mà chủ sở hữu hợp pháp với mảnh đất này sẽ phụ thuộc vào mảnh đất được có hình thành từ thời điểm nào. Khi đó sẽ xác định việc tặng cho tài sản cần có sự đồng ý của những ai? (Hoàng Anh Dũng - Thái Nguyên)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Bùi Ánh Vân - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất, mảnh đất được hình thành trước khi bố anh lấy vợ thứ nhất.

Khi đó, mảnh đất là tài sản của riêng bố anh. Khi đó, bố anh là người sử dụng đất duy nhất có toàn quyền sử dụng, định đoạt với mảnh đất này. Việc tặng cho của bố anh cho anh không cần có sự đồng ý của bất kỳ người nào khác theo quy định tại điều 167 Luật đất đai 2013:

"Điều 167. Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất.1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này".

Thứ hai, mảnh đất được hình thành trong thời kỳ hôn nhân của bố anh và người vợ thứ nhất, có đăng ký kết hôn.

Khi đó, mảnh đất là tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014:

"Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng:1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung".

Khi đất là sở hữu chung của ba anh và người vợ thứ nhất thì nếu ba anh muốn tặng cho anh toàn bộ mảnh đất này thì bắt buộc phải có sự đồng ý của người này thì việc tặng cho toàn bộ mảnh đất mới có thể thực hiện được. Nếu như người vợ thứ nhất không đồng ý thì ba bạn chỉ có thể tặng cho bạn 1/2 mảnh đất thuộc sở hữu của mình.

Thứ ba, mảnh đất được hình thành trong thời kỳ hôn nhân của bố anh và người vợ thứ hai (mẹ anh). Khi này, ba anh đã ly hôn với người vợ thứ nhất.

Khi đó, mảnh đất sẽ là tài sản chung của ba anh và người mẹ anh. Khi đó, việc sử dụng định đoạt mảnh đất sẽ cần có sự đồng ý của ba và mẹ anh, việc tặng cho anh mảnh đất chỉ cần có sự xác nhận bằng văn bản (có công chứng) của hai người này và không cần có sự đồng ý của người vợ thứ nhất.

Tuy nhiên, nếu như ba anh chưa ly hôn với người mẹ thứ nhất thì đây vẫn được coi là tài sản chung của ba anh và người vợ thứ nhất như trường hợp thứ hai trừ trường hợp người vợ thứ hai (mẹ anh) chứng minh được công sức đóng góp của mình trong việc tạo nên mảnh đất này.

Những người con riêng hoặc con chung của ba anh sẽ không có quyền định đoạt việc tặng cho mảnh đất trừ khi những người này có đóng góp trong việc tạo lập khối tài sản chung. Khi đó, những người này có quyền tương ứng với mức độ đóng góp của mình trong khối tài sản đó.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.