Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
Hỏi: Gia đình tôi ở chung trên thửa đất khoảng 300m và đã xây nhà kiên cố trên thửa đất này. Trước đây thửa đất đã được bố tôi thực hiện làm sổ đỏ phân chia thành 2 phần. Một phần đứng tên vợ chồng anh trai tôi, phần còn lại đứng tên bố mẹ tôi. Năm 2010 bố tôi mất và có để di chúc cũng như chuyển đổi phần đất đứng tên bố mẹ tôi sang cho mẹ tôi. Hiện tại mẹ tôi muốn lập di chúc và muốn phân chia lại toàn bộ thửa đất (bao gồm cả phần đã đứng tên vợ chồng anh trai tôi) cho các con (nhà tôi có 4 anh chị em) vậy cho tôi hỏi có được không? thủ tục thế nào? (Dương Thị Quý - Thanh Hóa)Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Phần đất đứng tên vợ, chồng anh trai bạn đã thực hiện làm sổ đỏ nên quyền sở hữu phần đất này thuộc về vợ, chồng anh trai bạn và vì vậy mẹ bạn muốn lập di chúc để phân chia lại toàn bộ thửa đất (bao gồm cả phần đã đứng tên vợ chồng anh trai bạn) là không được. Mẹ của bạn chỉ có thể lập di chúc về nửa phần đất 300m trên thôi bởi trước khi mất bố của bạn đã để mình mẹ bạn đứng tên trong sổ đỏ của phần đất đó.
Theo quy định tại Điều 649, Bộ luật dân sựnăm 2005 có quy định:
"Điều 649.Hình thức của di chúc:Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình".
Như vậy thủ tục lập di chúc sẽ được thực hiện như sau:
1. Nếu di chúc lập thành văn bản:
+ Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng:"Người lập di chúc phải tự viết tay và kí vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 653 của bộ luật này".
+ Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: “Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng. Người lập di chúc phải kí hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ kí, điểm chỉ của người lập di chúc và kí vào bản di chúc. Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 653 và Điều 654 của bộ luật này”( Điều 655).
+ Di chúc bằng văn bản có chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, chứng nhân của công chứng nhà nước (quy định cụ thể tại Điều 658)
2.Nếu di chúc bằng miệng:
Việc lập di chúc miệng sẽ được thực hiện theo Điều 651, BLDS năm 2005 như sau:
"Điều 651.Di chúc miệng:1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.2. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ"
Di chúc miệng được xem là hợp pháp nếu có hai người làm chứng và ghi chép lại (xem quy định tại Khoản 5, Điều 652, BLDS năm 2015) và người làm chứng không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 654 BLDS năm 2005.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận