Trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất phải được thực hiện thành văn bản có công chứng, chứng thực, phải đăng ký quyền sở hữu.
Hỏi: Cha tôi có mảnh đất, năm 1988 ông đã tách cho tôi 1 nửa và giấy chứng nhận quyền sở hữu đất mang tên tôi từ năm 1988 khi cho không có điều kiện gì chỉ ghi là cho đất con. Năm 2015 tôi đi làm sổ đỏ mang tên tôi mà mảnh đất bố tôi đã cho tôi. Do mâu thuẫn gia đình bố tôi đòi lại chỗ đất ông đã cho tôi năm 1988. Tôi muốn hỏi giờ liệu ông có đòi lại được đất mang tên sổ đỏ là tôi không.? (Duy Khánh - Hà Nội)
Điều 467 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định như sau:
“1.Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu;
2.Hợp động tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản".
Điều 692, Bộ luật dân sự 2005 quy định việc chuyển quyền sử dụng đất như sau:
“Việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai".
Như vậy, trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất phải được thực hiện thành văn bản có công chứng, chứng thực, phải đăng ký quyền sở hữu.
Trường hợp việc tặng cho đã hoàn tất, việc chuyển quyền sở hữu đã xong thì tài sản đã thuộc về người được tặng cho, người tặng cho không thể đòi lại.
Trong trường hợp của bạn, đến năm 2015 bạn mới đi làm sổ đỏ đối với mảnh đất mà cha cho bạn, điều này đồng nghĩa với việc tặng cho quyền sử dụng đất của cha bạn và bạn chưa hoàn tất, do đó, đến thời điểm mà bạn chưa đi đăng ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bố bạn vẫn có quyền đòi lại phần mảnh đất này.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận