-->

Cơ cấu tổ chức của Quốc hội

Tổ chức của Quốc Hội bao gồm những cơ cấu bên trong được lập ra để giúp Quốc Hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Tổ chức của Quốc Hội do Hiến pháp và luật tổ chức Quốc Hội quy định.

Tổ chức Quốc hội là một trong những yếu tố bảo đảm hiệu quả hoạt động của Quốc Hội. Việc xây dựng tổ chức của Quốc hội theo Hiến pháp được đặt ra với yêu cầu bảo đảm hoạt động của Quốc Hội, nhưng không làm thay đổi Quốc hội. Theo tinh thần đó, tổ chức của Quốc Hội đã được quy định gồm có: Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc Hội.
Luật sư tư vấn pháp luật - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội


Trước đây, trong tổ chức của Quốc Hội cũng đã có Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Nhưng theo quy định của Hiến pháp 1980, Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội đã được thay thế bằng Hội đồng Nhà nước. Hội đồng Nhà nước theo quy định của Hiến pháp 1980, là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc Hội, đồng thời là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Để phân biệt rõ ràng chức năng Nguyên thủ quốc gia và chức năng thường trực Quốc Hội, Hiến pháp 1992 đã quy định tách Hội đồng Nhà nước thành hai chế định: Chủ tịch nước và Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Chủ tịch nước đảm nhiệm chức năng Nguyên thủ quốc gia. Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc Hội.

Thành phần của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội gồm có: Chủ tịch Quốc Hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên. Chủ tịch Quốc Hội làm Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc Hội và các Phó chủ tịch Quốc Hội làm các Phó Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc Hội (Điều 5, Luật tổ chức Quốc Hội).

Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc Hội.

Những nhiệm vụ, quyền hạn này có thể được phân tích thành 3 lĩnh vực sau đây:

Thứ nhất, những nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng thường trực tổ chức cho Quốc hội hoạt động. Uỷ ban thường vụ Quốc Hội công bố và chủ trì việc bầu Đại biểu Quốc Hội, tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc Hội, chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc Hội; Hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của Đại biểu Quốc Hội, thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc Hội.

Thứ hai, những nhiệm vụ, quyền hạn thay Quốc Hội giải quyết các nhiệm vụ của Quốc Hội giữa hai kỳ họp: Quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và báo cáo Quốc Hội xem xét và quyết định tại kỳ họp gần nhất; Xem xét việc trả lời chất vấn và thực hiện các kiến nghị của Hội đồng, các Uỷ ban, và các đại biểu Quốc Hội.

Thứ ba, những nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội với tư cách là một cơ quan Nhà nước độc lập: Ban hành các văn bản pháp luật về những vấn đề được Quốc Hội giao (nhưng pháp lệnh phải nằm trong chương trình lập pháp của Quốc Hội); Thực hiện quyền giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc Hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; Hủy bỏ các văn bản của Chính Phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội; Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân, bãi bỏ các Nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân; Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; Ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; Tổ chức trưng cầu dân ý theo quyết định của Quốc Hội.

Trong tổ chức thực hiện của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, Chủ tịch Quốc Hội giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Là người đứng đầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc Hội phải chủ trì điều hành hoạt động của Uỷ ban thường vụ, lãnh đạo công tác Uỷ ban thường vụ, chỉ đạo việc chuẩn bị, triệu tập, và chủ toạ các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

Khác với thiết chế của Uỷ ban thường vụ trước đây của Hiến pháp 1959, người đứng đầu Uỷ ban thường vụ Quốc Hội còn là Chủ tịch Quốc Hội, nên Chủ tịch Quốc Hội có vị trí đặc biệt trong tổ chức hoạt động của Quốc Hội. Chủ tịch Quốc Hội chủ toạ các phiên họp của Quốc Hội, đảm bảo thi hành quy chế đại biểu Quốc Hội, nội quy kỳ họp Quốc Hội, ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc Hội.

Chủ tịch Quốc Hội triệu tập và chủ toạ hội nghị liên tịch giữa Chủ tịch Hội đồng dân tộc, các Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc Hội để bàn chương trình hoạt động của Quốc Hội, của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc Hội khi xét thấy cần thiết.

Chủ tịch Quốc Hội giữ mối quan hệ với các đại biểu Quốc hội, theo dõi thực hiện các quy định của pháp luật về việc bảo đảm điều kiện để đại biểu hoạt động, cung cấp thông tin để đại biểu nắm chương trình hoạt động và tình hình hoạt động của Quốc Hội, theo dõi và đôn đốc các đại biểu báo cáo tình hình hoạt động của mình.

Chủ tịch Quốc Hội chỉ đạo việc thực hiện công tác đối ngoại của Quốc Hội, thay mặt Quốc Hội trong quan hệ đối ngoại, lãnh đạo hoạt động của đoàn Quốc hội Việt nam trong liên minh Quốc Hội của toàn thế giới. Chủ tịch Quốc Hội chỉ đạo và tổ chức thực hiện ngân sách cuả Quốc hội, ngân sách của Quốc Hội là một khoản độc lập trong ngân sách Nhà nước do Quốc Hội thảo luận và quyết định.

Giúp việc cho Chủ tịch Quốc Hội là các Phó chủ tịch Quốc Hội, được phân công đảm nhiệm các phần việc của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Uỷ ban thường vụ Quốc Hội làm việc theo chế độ hội nghị. Mỗi tháng họp ít nhất một lần. Pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.

Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội được ban hành hai loại văn bản: Pháp lệnh và Nghị quyết.

Về nguyên tắc, Pháp lệnh là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý sau luật được Uỷ ban thường vụ Quốc Hội dùng để đặt ra các quy luật pháp luật, điều chỉnh những mối quan hệ xã hội quan trọng tương đối ổn định nhưng chưa có luật điều chỉnh, hoặc luật chưa điều chỉnh một cách đầy đủ. Việc ban hành pháp lệnh là một chức năng quan trọng của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, thực chất là thay luật trong khi không có luật, hoặc luật điều chỉnh không đầy đủ. Đây cũng là chức năng của Hội đồng Nhà nước - Hiến pháp 1980. Nhưng pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội hiện nay khác với pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước trước đây ở chỗ: Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội hiện nay chỉ được phép làm pháp lệnh trong phạm vi chương trình cho phép của Quốc Hội; Và có thể bị Chủ Tịch nước phủ quyết. Chính những đặc điểm này nhằm hạn chế chức năng làm pháp lệnh của uỷ ban thường vụ Quốc Hội, để tăng cường hoạt động lập pháp của Quốc Hội. Quốc hội không ỷ thế vào việc ban hành pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội mà không vươn tới đảm đương tốt chức năng của mình.

Thực chất pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội là một loại lập pháp ủy quyền(1). Dựa trên thực tế hoạt động xây dựng pháp luật của nhiều nước, lập pháp ủy quyền thuộc thẩm quyền của hành pháp, có ý kiến cho rằng pháp lệnh là hoạt động xâm phạm đến quyền lập quy của Chính phủ, hành pháp.

Một nhiệm vụ rất gắn liền với chức năng lập pháp của Quốc Hội là việc giải thích Hiến pháp và luật của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, nhưng rất ít được sử dụng. Hình thức văn bản dùng để giải thích không được Hiến pháp quy định. Nhưng, thực tế Uỷ ban thường vụ Quốc Hội thường để giải thích bằng chính việc ban hành Pháp lệnh.

Về công tác ban hành pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, Báo cáo nhiệm kỳ
1992 - 1997, nhận định "Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Trong điều kiện Quốc Hội và đa số đại biểu hoạt động kiêm nhiệm, mỗi năm chỉ họp có hai kỳ thì việc Uỷ ban thường vụ Quốc Hội tiếp tục ban hành các pháp lệnh để điều chỉnh các vấn đề có tính cấp bách thuộc các lĩnh vực kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại được Quốc Hội giao là cần thiết. Trong gần 5 năm qua, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội đã thông qua 43 pháp lệnh và 20 nghị quyết có "nội dung pháp luật".

Loại văn bản thứ hai Uỷ ban thường vụ Quốc hội là Nghị quyết được sử dụng chủ yếu dưới dạng văn bản áp dụng pháp luật để giải quyết các công việc cụ thể như: Hủy bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của Hội đồng nhân cấp Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội; Phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ.

Uỷ ban thường vụ Quốc Hội của Nhà nước Việt Nam là một cơ quan đặc biệt, không là một loại cơ quan phổ biến ở nhiều nước khác. Việc tồn tại Uỷ ban thường vụ Quốc Hội chẳng qua là do Quốc hội nước ta không hoạt động thường xuyên như nhiều Quốc hội khác, nên buộc phải thành lập ra một cơ quan mang tính chất thường trực cho Quốc Hội, có quyền giải quyết những nhiệm vụ quyền hạn Quốc Hội, kể cả về pháp lệnh.

Về mặt nguyên tắc khi Uỷ ban thường vụ Quốc Hội giải quyết những vấn đề này đều phải trực tiếp hoặc gián tiếp có sự phê chuẩn của Quốc Hội. Bên cạnh những nhiệm vụ này, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội có nhiệm vụ riêng liên quan việc bảo đảm các điều kiện hoạt động của Quốc Hội, gắn liền với vai trò Chủ tịch Quốc Hội, và không cần phải có sự phê chuẩn đồng ý của Quốc hội. Ví dụ, như chủ toạ các phiên họp của Quốc Hội, lãnh đạo việc chuẩn bị, và chủ trì các kỳ họp của Quốc Hội, điều hoà phối hợp hoạt động giữa các ủy ban và Hội đồng của Quốc Hội và giữ mối liên hệ với các Đại biểu Quốc Hội. Một khi Quốc Hội có đầy đủ điều kiện và khả năng thực hiện nhiệm vụ của mình, thì vai trò của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội sẽ teo đi, chỉ còn lại một chức năng điều khiển các phiên họp của Quốc Hội của Chủ tịch Quốc Hội là đủ.
Tìm hiểu chi tiết tại:Luật hành chính hiện hành

Nhận xét về Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, Giáo sư Đoàn Trọng Tuyến viết:

"Cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao (Quốc Hội) lại ủy cái quyền tối cao ấy cho một cơ quan cho mình bầu ra là Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, trong khi Quốc Hội không họp. Cơ quan này có ba quyền lớn thuộc quyền lực tối cao. Đó là: Quyền lập pháp ra pháp lệnh (vì pháp lệnh thuộc quyền lực tối cao). Quyền nhân sự đối với Chính phủ (Phó Thủ tướng, Bộ trưởng) và quyền giám sát giống như Quốc Hội. Thực chất Uỷ ban thường vụ Quốc Hội của Hiến pháp 1992 là Hội đồng Nhà nước của Hiến pháp 1980, trừmột số nhiệm vụ giao cho Chủ Tịch nước"
Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc Hội


Hoạt động của Quốc Hội, như phần trên đã phân tích, đòi hỏi Quốc Hội phải quyết định nhiều vấn đề trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội khác nhau. Để quyết định của Quốc Hội có hiệu lực trên thực tế, công việc chuẩn bị, xem xét, nghiên cứu và khởi thảo trước các dự án có ý nghĩa rất quan trọng. Đồng thời có những nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc Hội nếu được giải quyết bằng cách tập trung tất cả những đại biểu Quốc Hội, nhiều khi không những không có hiệu quả, mà còn tốn kém. Do đó, Quốc Hội thành lập các bộ phận chuyên sâu bao gồm các đại biểu có những chuyên môn nghiệp vụ để nghiên cứu trước các dự án. Đó là các Uỷ ban Thường trực của Quốc Hội.

Điều 95 Hiến pháp 1992 quy định: "Quốc Hội bầu ra các ủy ban của Quốc Hội, các ủy ban của Quốc Hội nghiên cứu thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác, những báo cáo được Quốc Hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc Hội giao, trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, thực hiện quyền giám sát trong phạm vi quyền hạn do luật định, kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Uỷ ban".

Theo Luật tổ chức Quốc Hội, Quốc Hội được thành lập bảy Uỷ ban thường trực:

- Uỷ ban pháp luật;

- Uỷ ban kinh tế và ngân sách;

- Uỷ ban quốc phòng và an ninh;

- Uỷ ban giáo dục, thanh niên, thiếu niên, và nhi đồng;

- Uỷ ban các vấn đề xã hội;

- Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường;

- Và Uỷ ban đối ngoại.

Thành phần của các Uỷ ban gồm có: Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm, và các uỷ viên do Quốc hội bầu ra tại kỳ họp thứ nhất mỗi khoá Quốc Hội, theo danh sách đề cử chức vụ từng người của Chủ tịch Quốc Hội. Chủ nhiệm và các Phó Chủ nhiệm hợp thành thường trực Uỷ ban. Để các Uỷ ban có điều kiện hoạt động, Luật tổ chức Quốc Hội cho phép một số Chủ nhiệm, và Phó Chủ nhiệm và Uỷ viên Uỷ ban hoạt động chuyên trách.

Khi xét thấy cần thiết, Quốc Hội thành lập ra Uỷ ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án điều tra về một vấn đề nhất định.

- Uỷ ban pháp luật có những nhiệm vụ:

Thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh về tổ chức bộ máy Nhà nước, về hình sự, dân sự, hành chính, chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và các dự án khác do Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc Hội giao; Tham gia thẩm tra các dự án do Hội đồng Dân tộc, hoặc Uỷ ban khác của Quốc Hội yêu cầu thẩm tra, nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

Thẩm tra đề án thành lập, bãi bỏ các bộ và cơ quan ngang bộ, nhập; thành lập mới,
điều chỉnh địa giới Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương.

Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội thuộc các lĩnh vực tổ chức bộ máy Nhà nước về hình sự, dân sự hành chính; Giám sát việc ban hành nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, các văn bản của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Hướng dẫn việc áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát, xét xử; Giám sát hoạt động của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách có nhiệm vụ:

Thẩm tra dự án luật, kiến nghị luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác thuộc các lĩnh vực quản lý kinh tế, hoạt động kinh doanh ngân sách và tài chính tiền tệ; Thẩm tra dự án, kế hoạch kinh tế văn hóa - xã hội, dự toán ngân sách Nhà nước, phân bố ngân sách Nhà nước và quyết toán ngân sách Nhà nước, các báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách Nhà nước và quyết toán ngân sách Nhà nước;

Giám sát thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế hoạt động kinh doanh, ngân sách, tài chính và tiền tệ, giám sát hoạt động của Chính phủ trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước.

- Uỷ ban Quốc phòng và An ninh có nhiệm vụ:

Thẩm tra các dự án luật, kiến nghị luật, dự án pháp luật và các dự án khác thuộc lĩnh vực quốc phòng và an ninh;

Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực quốc phòng an ninh; Giám sát việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và việc thực hiện ngân sách trong lĩnh vực này.

- Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng có những nhiệm:

Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh thuộc lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thông tin, thể
thao và thanh niên, thiếu niên, nhi đồng và các dự án khác do Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội giao;

Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thông tin, thể thao và thanh niên, thiếu niên, nhi đồng; giám sát hoạt động của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong việc thực hiện chính sách về văn hóa, giáo dục, thông tin, thể thao trong các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; giám sát việc thực hiện chính sách đối với thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;

Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách;

Kiến nghị các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan và các vấn đề về phát triển văn hóa, giáo dục, thông tin, thể thao của đất nước, chính sách đối với thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.

- Ủy ban về các vấn đề xã hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh thuộc lĩnh vực lao động, y tế, xã hội, tôn giáo và các dự án khác do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao;

Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực các vấn đề xã hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong việc thực hiện chính sách về các vấn đề xã hội trong các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;

Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách;

Kiến nghị các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan và các chính sách, biện pháp để giải quyết các vấn đề xã hội.

- Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường có những nhiệm vụ và quyền hạn:

Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ và bảo vệ
môi trường sinh thái và các dự án khác do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao;

Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường sinh thái; giám sát hoạt động của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong việc thực hiện chính sách phát triển khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường sinh thái trong các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;

Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội thuộc lĩnh Ủy ban phụ trách;

Kiến nghị các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan và các vấn đề về chính sách đầu tư phát triển khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường sinh thái.

- Uỷ ban Đối ngoại có nhiệm vụ:

Thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án thuộclĩnh vực hoạt động đối ngoại của Nhà nước, công pháp và tư pháp quốc tế, báo cáo của Chính phủ về công tác đối ngoại trình Quốc hội;

Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc Hội, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội thuộc lĩnh vực đối ngoại; Giám sát hoạt động của Chính phủ trong việc thực hiện chính sách đối ngoại của các ngành và địa phương.

Thực hiện và giúp Quốc Hội thực hiện quan hệ đối ngoại với Quốc Hội các nước và liên minh Quốc Hội thế giới; Kiến nghị với Quốc Hội những vấn đề thuộc chính sách đối ngoại của Nhà nước, về quan hệ với Quốc Hội các nước, với liên minh Quốc Hội Thế giới và các tổ chức Quốc tế.

Trên lãnh thổ Việt nam từ ngàn xưa đã hình thành một Nhà nước nhiều dân tộc. Một trong những nhiệm vụ to lớn của cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao trong hoạt động của mình phải tính đến quyền lợi của các dân tộc. Để có cơ sở giải quyết vấn đề quan trọng này, ngay từ khi bầu cử, phải có đại diện của các dân tộc, nhất là những dân tộc thiểu số. Chính tính chất đại diện này, như trên đã phân tích là điều kiện nói lên quyền lực tối cao của Quốc Hội trong hệ thống các cơ quan Nhà nước. Tính đại diện này không dừng lại ở mức độ thành lập, mà ngay cả trong hoạt động cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất cũng phải tính đến quyền lợi của các dân tộc.

Để giải quyết vấn đề này, theo quy định của Hiến pháp 1980, Quốc hội thành lập Hội đồng Dân tộc. Qua hơn 10 năm thực hiện Hiến pháp 1980, Hội đồng Dân tộc đã phát huy vai trò quan trọng của mình là cơ quan của Quốc Hội, nghiên cứu và kiến nghị với Quốc Hội nhiều vấn đề quan trọng về dân tộc. Hội đồng Dân tộc những năm nói trên đã có sự tham gia đông đảo các đại biểu đại diện cho ý chí và nguyện vọng của đồng bào các dân tộc trong cả nước.

Kế thừa và tiếp tục khẳng định vị trí quan trọng Hội đồng Dân tộc của Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 quy định:

- Hội đồng dân tộc có những nhiệm vụ và quyền hạn:

Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và dự án khác liên quan đến vấn đề dân tộc;

Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực dân tộc; giám sát hoạt động của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong việc thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số;

Tham gia ý kiến về dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội có liên quan đến vấn đề dân tộc và giám sát việc thực hiện các văn bản đó;

Kiến nghị với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội các vấn đề về chính sách dân tộc của Nhà nước; các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan; kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và các cơ quan khác của Nhà nước ở trung ương và địa phương về những vấn đề có liên quan đến dân tộc thiểu số.

Nói chung, về mặt nguyên tắc nhiệm vụ của Hội đồng cũng tương tự như nhiệm vụ của các Uỷ ban thường trực của Quốc Hội. Xét cho cùng thì Hội đồng Dân tộc cũng là một thứ Uỷ ban của Quốc Hội. Nhưng, lĩnh vực hoạt động ở đây là lĩnh vực các vấn đề về dân tộc, nên có tầm quan trọng hơn cả. Để thấy rõ tính quan trọng đó, cơ quan nào giúp việc cho Quốc Hội về lĩnh vực này được gọi là Hội đồng chứ không gọi đơn giản là ủy ban. Việc thành lập, cũng như nhiệm vụ của Hội đồng Dân tộc là vấn đề do Hiến pháp quy định (Hiến định). Trong khi đó việc thành lập Uỷ ban này, hay Uỷ ban khác và cũng như nhiệm vụ của từng Uỷ ban do Luật tổ chức Quốc Hội quy định. Điều này có nghĩa việc thay đổi tên gọi, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Dân tộc chỉ có thể được tiến hành trên cơ sở sửa đổi những quy định của Hiến pháp, công việc sửa đổi những quy định về các Uỷ ban thường trực chỉ cần Quốc Hội thông qua bằng một đạo luật là đủ.

Hiến pháp năm 1992 còn có quy định mới so với Hiến pháp năm 1980 về mối quan hệ giữa Hội đồng dân tộc với Chính phủ và Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội. Trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc, Chính phủ phải tham khảo ý kiến của Hội đồng Dân tộc; Chủ tịch Hội đồng Dân tộc được tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện các chính sách dân tộc.

Như vậy, Hội đồng Dân tộc không những chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của Quốc hội như các Uỷ ban thường trực của Quốc Hội khác, mà còn được tham gia vào các hoạt động của Chính phủ, khi Chính phủ quyết định các vấn đề liên quan đến chính sách dân tộc.

Qua hoạt động của các Quốc Hội khoá VII, khoá VIII và khoá IX, chúng ta thấy hoạt động của Quốc Hội bao giờ cũng gắn liền với hoạt động của Hội đồng và các Uỷ ban. Cho nên việc nâng cao vị trí của Quốc Hội cũng đồng thời là việc nâng cao vị trí của Hội đồng và của các Uỷ ban.

Đại biểu Quốc Hội


Khác với các Nghị sỹ Quốc Hội các nước tư sản, các Đại biểu Quốc Hội nước ta phải gắn liền với cử tri và đơn vị bầu cử đã bầu ra họ. Để giúp đỡ các đại biểu hoàn thành nhiệm vụ lớn lao của mình, theo quy định của Hiến pháp, trong cơ cấu Quốc Hội còn có các đoàn đại biểu. Các đại bíểu Quốc Hội được bầu ở các đơn vị bầu cử trong Tỉnh hoặc Thành phố trực thuộc Trung ương họp thành đoàn đại biểu Quốc Hội.

Đoàn đại biểu Quốc Hội được lập ra để tổ chức hoạt động của đại biểu Quốc Hội, tạo điều kiện để đại biểu Quốc Hội tiếp dân, tiếp xúc cử tri, báo cáo với cử tri và thu thập ý kiến nguyện vọng của cử tri.

Đoàn đại biểu Quốc Hội không phải là một cấp quản lý đại biểu hay đơn vị sinh hoạt một cách đầy đủ của đại biểu. Mỗi đại biểu Quốc Hội do cử tri trực tiếp bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhà nước trước, cử tri đơn vị bầu cử ra mình. Đoàn đại biểu Quốc Hội không hoạt động thay cho đại biểu mà chỉ tạo điều kiện để đại biểu hoạt động.

Trong thực tế hiện nay, khi trình độ đại biểu ở nước ta chưa đồng đều, phương tiện đi lại khó khăn, khả năng hoạt động của các đại biểu khác nhau thì đoàn đại biểu Quốc Hội còn đóng vai trò nhất định. Vì vậy theo quy định mới mỗi đoàn đại biểu Quốc Hội sẽ bố trí một hoặc hai đại biểu hoạt động chuyên trách để tổ chức và tạo điều kiện cho các đại biểu hoạt động. Nhưng những quy định cụ thể để đại biểu không dựa hẳn vào đoàn đại biểu. Ngược lại, cũng cần tránh tình trạng để các đoàn đại biểu quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc Hội.

Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn:

Trong số các đại biểu Quốc hội, có những đại biểu hoạt động chuyên trách và có những đại biểu hoạt động không chuyên trách. Số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách có ít nhất là hai mươi lăm phần trăm tổng số đại biểu Quốc hội.

- Đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm trước cử tri, đồng thời chịu trách nhiệm trước
Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình.

Đại biểu Quốc hội phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật, động viên nhân dân chấp hành pháp luật và tham gia quản lý nhà nước.

- Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tham gia các phiên họp toàn thể của Quốc hội, các cuộc họp của Tổ đại biểu Quốc hội, của Đoàn đại biểu Quốc hội; thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.

Đại biểu Quốc hội là thành viên của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm tham gia các phiên họp, thảo luận, biểu quyết các vấn đề và tham gia các hoạt động khác thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội mà mình là thành viên.

Đại biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách được dành ít nhất một phần ba thời gian làm việc để thực hiện nhiệm vụ đại biểu. Cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi đại biểu làm việc có trách nhiệm tạo điều kiện để đại biểu thực hiện nhiệm vụ.

- Đại biểu Quốc hội có quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật ra trước Quốc hội, dự án pháp lệnh ra trước Ủy ban thường vụ Quốc hội theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định.

- Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời về những vấn đề mà đại biểu Quốc hội chất vấn.

Trong thời gian Quốc hội họp, đại biểu Quốc hội gửi chất vấn đến Chủ tịch Quốc hội. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp đó. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản.

Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, chất vấn được gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội để chuyển đến cơ quan hoặc người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn.

Nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch
Quốc hội đưa ra thảo luận trước Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Khi cần thiết, Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn.

- Đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị với Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

- Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội và cơ quan nhà nước hữu quan.

Mỗi năm ít nhất một lần đại biểu Quốc hội phải báo cáo trước cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình. Cử tri có thể trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận Tổ quốc yêu cầu đại biểu báo cáo công tác và có thể nhận xét đối với việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội.

- Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp công dân. Khi nhận được kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người kiến nghị, khiếu nại, tố cáo biết; đôn đốc và theo dõi việc giải quyết. Người có thẩm quyền giải quyết phải thông báo cho đại biểu Quốc hội về kết quả giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo đó trong thời hạn theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo không thỏa đáng, đại biểu Quốc hội có quyền gặp người đứng đầu cơ quan hữu quan để tìm hiểu, yêu cầu xem xét lại. Khi cần thiết, đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu người đứng đầu cơ quan hữu quan cấp trên của cơ quan đó giải quyết.

- Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của công dân, đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi trái pháp luật đó. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thông báo cho đại biểu Quốc hội biết việc giải quyết. Quá thời hạn nói trên mà cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị không trả lời thì đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị với người đứng đầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên, đồng thời báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

- Khi thực hiện nhiệm vụ đại biểu, đại biểu Quốc hội có quyền liên hệ với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân. Người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị đó trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm tiếp và đáp ứng những yêu cầu của đại biểu Quốc hội.

- Đại biểu Quốc hội có quyền tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân các cấp nơi mình
được bầu, có quyền phát biểu ý kiến nhưng không biểu quyết.

Chủ tịch Hội đồng nhân dân các cấp thông báo cho đại biểu Quốc hội biết ngày họp
Hội đồng nhân dân cấp mình, mời đại biểu tới dự và cung cấp tài liệu cần thiết.

- Đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tùy mức
độ phạm sai lầm mà bị Quốc hội hoặc cử tri bãi nhiệm.

Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định việc đưa ra Quốc hội bãi nhiệm hoặc cử tri nơi bầu ra đại biểu bãi nhiệm đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc của cử tri nơi bầu ra đại biểu Quốc hội đó.

Trong trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội thì việc bãi nhiệm phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

Trong trường hợp cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội thì việc bãi nhiệm được tiến hành theo thể thức do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.

- Đại biểu Quốc hội có thể xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu vì lý do sức khỏe hoặc vì lý do khác. Việc chấp nhận đại biểu Quốc hội xin thôi làm nhiệm vụ do Quốc hội quyết định; trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội thì do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

- Trong thời gian làm nhiệm vụ đại biểu được hưởng quyền miễn trừ:

Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội và không được khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội. Việc đề nghị bắt giam, truy tố, khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội xét và quyết định.

Trong trường hợp đại biểu Quốc hội bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội đó.

Đại biểu Quốc hội bị Tòa án kết án thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Đại biểu Quốc hội không thể bị cơ quan, đơn vị nơi đại biểu làm việc cách chức, buộc thôi việc, nếu không được Ủy ban thường vụ Quốc hội đồng ý.

- Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách được bố trí nơi làm việc và các điều kiện cần thiết khác cho hoạt động đại biểu của mình.

Khi đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách thôi làm nhiệm vụ đại biểu thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có trách nhiệm bố trí công tác cho đại biểu Quốc hội.

Quyền miễn trừ của đại biểu Quốc hội được hình thành từ quyền miễm trừ của nghị sỹ tư sản. Nhưng ngày này quyền này cũng không còn ý nghĩa nữa. Thành viên Quốc hội, cũng như bất kỳ ai khác có thể bị bắt giữ khi vi phạm pháp luật.

Bài viết được thực hiện bởi: thạc sĩ, luật sư Phạm Ngọc Minh - Giám đốc Công ty Luật TNHH Everest, Giảng viên khoa Luật kinh tế - Trường Đại học Hòa Bình

Xem thêm:

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest quaTổng đài tư vấn pháp luật19006198, E-mail:[email protected],[email protected].