Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Toà án. Quyết định hình phạt đối với người phạm tội có ý nghĩa về chính trị, xã hội và ý nghĩa pháp lý.
Quyết định hình phạt là việc Toà án lựa chọn một loại hoặc một mức trong giới hạn của một loại hình phạt để áp dụng đối với người phạm tội.
Theo quy định của BLHS tại Điều 45, để quyết định hình phạt đối với người phạm tội phải dựa vào 4 căn cứ sau:
1. Căn cứ vào quy định của BLHS
Để thực hiện 3 bước của quá trình giải quyết vụ án hình sự đó là bước định tội danh, định khung hình phạt và quyết định hình phạt, các cơ quan tiến hành tố tụng đều phải căn cứ vào các quy định của BLHS để làm sáng tỏ các tình tiết định tội, tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các chế định khác đã được quy định trong BLHS.
2. Căn cứ vào nhân thân của người phạm tội
Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm nói lên bản chất của một con người có ảnh hưởng nhất định đến quá trình thực hiện tội phạm và khả năng cải tạo giáo dục người phạm tội.
Các đặc điểm về nhân thân người phạm tội được chia làm 2 nhóm:
- Nhóm nhân thân người phạm tội mang tính chất pháp lý: Các đặc điểm nhân thân này được quy định trong BLHS đó là các tình tiết định tội (như người có chức vụ quyền hạn của tội tham ô), các tình tiết định khung và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS.
- Nhóm nhân thân người phạm tội không mang tính pháp lý: Ngoài nhóm nhân thân kể trên nhưng chúng có ảnh hưởng tới khả năng cải tạo giáo dục người phạm tội (là những đặc điểm nói lên bản chất của người phạm tội). Ví dụ: ý thức chính trị, ý thức lao động, trình độ văn hoá, thành phần gia đình, đối tượng chính sách của Đảng và Nhà nước. Các đặc điểm này cũng được xem xét cân nhắc khi quyết định hình phạt.
3. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
Đối với việc quyết định hình phạt thì căn cứ này có tính chất quyết định nhất, quan trọng nhất.
Để xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm phải xem xét, đánh giá một cách toàn diện các yếu tố sau:
- Tính chất của hành vi phạm tội: hành động, không hành động, phạm tội riêng lẻ hay đồng phạm thông thường, phạm tội có tổ chức.
- Thủ đoạn, hoàn cảnh địa điểm, thời gian phạm tội.
- Giai đoạn thực hiện tội phạm.
- Hậu quả thiệt hại.
- Hình thức, mức độ lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.
Cũng như các căn cứ khác để quyết định hình phạt, thì tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một căn cứ được xem xét, đánh giá từ ngay giai đoạn định tội và định khung hình phạt.
4. Các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS
a. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS (Đ46 BLHS)
Nội dung của các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại Khoản 1, Điều 46 BLHS
cụ thể là các tình tiết sau:
1/. Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm Ví dụ: A đâm B 2 nhát sau đó A đưa B đi cấp cứu.
2/. Tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Ví dụ: Người phạm tội có hành động tích cực như giúp đỡ nạn nhân vượt qua những khó khăn do hậu quả tội phạm để lại nhằm làm giảm nhẹ hậu quả tội phạm sau khi đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại. Tìm lại đứa trẻ đã bán, nhận bố mẹ của nạn nhân là bố mẹ nuôi, thường xuyên lui tới chăm sóc nạn nhân.
Tự nguyện bồi thường thiệt hại phải với mức ít nhất 1phần 2 mức bồi thường thực tế phải thực hiện.
- Nghị quyết 01/2001 ngày 15/03/2001 của HĐTPTANDTC.
3/. Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn PVCĐ hoặc vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết.
4/. Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc của người khác gây ra.
5/. Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình tự gây ra.
Ví dụ: A có số tiền 20 triệu đồng mang theo để đưa mẹ đi đến bệnh viện cấp cứu.Trên đường đi đã bị kẻ gian lấy hết số tiền đó, A đã vận chuyển thuê thuốc phiện cho M để lấy tiền điều trị cho mẹ.
6/. Chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn.
7/. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.
8/. Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức.
9/. Phạm tội do lạc hậu tức là người phạm tội xử sự theo phong tục, tập quán lạc hậu. Ví dụ: Giết người do bị nghi là MaLai của người Bana ở Tây Nguyên.
10/. Người phạm tội là phụ nữ có thai.
11/. Người phạm tội là người già. Nghị quyết 01/2006/HĐTPTATC ngày 12/05/2006 quy định người già là người từ đủ 70 tuổi trở lên.
12/. Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi.
Ví dụ: A là nhân viên đường sắt làm nhiệm vụ tại rào chắn với đường bộ. Khi có tàu chạy qua, A bị lên cơn sốt rét cấp tính không đủ sức khoẻ để kéo rào chắn dẫn đến gây tai nạn.
13/. Người phạm tội tự thú là trường hợp tội phạm chưa bị phát hiện người phạm tội đã chủ động trình diện khai rõ hành vi phạm tội của mình và đồng bọn cho cơ quan chức năng.
14/. Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Là trường hợp người phạm tội cảm thấy cắn rứt, giày vò lương tâm, hối hận, muốn sửa chữa sai lầm. Ví dụ: Sau khi gây thương tích cho B, A đến xin lỗi B, thường xuyên vào viện thăm hỏi, chăm sóc B.
15/. Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm. Ví dụ: Người phạm tội cung cấp tài liệu, chứng cứ, chỉ nơi cất giấu tang vật, chỉ nơi người khác đang trốn.
16/. Người phạm tội đã lập công chuộc tội. Ví dụ người phạm tội sau khi thực hiện tội phạm đã có hành động dũng cảm cứu người, cứu tài sản đang có nguy cơ bị đe doạ Tình tiết này trước đây được quy định tại Khoản 2, Điều 38 BLHS 1985.
17/. Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác.Tình tiết này trước đây được quy định tại Khoản 2, Điều 38 BLHS 1985.
* Chú ý:
Ngoài những tình tiết nêu trên Toà án có thể coi những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án (Khoản 2, Điều 46). Tại Nghị quyết 01/2000 của HĐTPTANDTC ban hành ngày 04/08/2000 quy định những tình tiết sau là tình tiết giảm nhẹ:
+ Người thứ ba hoặc người bị hại cũng có lỗi.
+ Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thay cho bị cáo.
+ Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp gây tổn hại cho sức khoẻ hoặc tài sản của họ.
Ngoài ra, thực tiễn xét xử còn thừa nhận các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ như: người phạm tội là thương binh; vợ, chồng, con của bị cáo là liệt sĩ; bị cáo, cha mẹ, vợ, chồng, con của bị cáo là người có công với cách mạng.
Các tình tiết nêu trên đã được BLHS quy định là tình tiết định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ khi quyết định hình phạt.
Khi có ít nhất từ hai tình tiết được quy định ở Khoản 1, Điều 46 Toà án có thể quyết định mức hình phạt dưới mức tối thiểu của khung hình phạt mà điều luật quy định (phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật - nếu điều luật có nhiều khung hình phạt) hoặc chuyển sang loại hình phạt khác nhẹ hơn (nếu khung hình phạt là mức thấp nhất của loại hình phạt đó). Lý do giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án - Điều 47 BLHS.
b. Các tình tiết tăng nặng TNHS
Nội dung của các tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại Khoản 1, Điều 48 BLHS
bao gồm các tình tiết sau:
1- Phạm tội có tổ chức: Là trường hợp đồng phạm mà giữa những người tham gia thực hiện tội phạm có sự cấu kết chặt chẽ.
2- Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp: Phạm tội từ hai lần trở lên, thu nhập có từ hành vi phạm tội là nguồn thu nhập chính, là một nghề chính của người phạm tội. Lấy việc phạm tội là phương tiện kiếm sống thường xuyên.
Theo hướng dẫn tại Nghị Quyết 01/2006/HĐTPTATC thì tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp phải thoả mãn 2 điều kiện sau:
- Cố ý phạm tội từ 5 lần trở lên về cùng một tội không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án tích.
- Người phạm tội lấy việc phạm tội làm nghề sinh sống chính và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
3- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
4- Phạm tội có tính chất côn đồ. Theo hướng dẫn tại Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 của Toà án nhân dân tối cao, phạm tội có tính chất côn đồ được hiểu là hành động của những tên coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích dùng vũ lực để uy hiếp người khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí giết người. Do đó, tình tiết này chủ yếu áp dụng đối với tội chống người thi hành công vụ, tội gây rối trật tự công cộng.
5- Phạm tội vì động cơ đê hèn như phạm tội vì sự trả thù đê tiện. Thể hiện tính ích kỷ cao, bội bạc, phản trắc, hèn nhát và là sự tột cùng đồi bại của đạo đức.
6- Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng. Tình tiết này nói lên sự quyết tâm phạm tội cao của người phạm tội. Khi gặp trở ngại khách quan như lúc đang chém người mà bị người khác ngăn cản vẫn không từ bỏ ý định phạm tội.
7- Phạm tội nhiều lần: Được hiểu là người phạm tội thực hiện tội phạm từ hai lần trở lên về cùng một loại tội, mỗi lần đều đủ yếu tố CTTP, các lần đó đều chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS và bị đưa ra xét xử cùng một lần.
8- Tái phạm: Tái phạm được quy định tại Khoản 1, Điều 49 BLHS “Người phạm tội đã bị kết án chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”.
9- Tái phạm nguy hiểm: Tái phạm nguy hiểm được quy định tại Khoản 2, Điều 49 BLHS " Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng đặc biệt nghiêm trọng do cố ý chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.
Hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý”.
Như vậy, để xác định người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm hay tái phạm nguy hiểm phải xem xét các điều kiện đó là người phạm tội phải thực hiện tội phạm ít nhất 2 lần trong đó ít nhất một lần đã bị kết án, hình thức lỗi và loại tội đã thực hiện.
10- Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác.
11- Xâm phạm tài sản của Nhà nước.
12- Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
13- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai, tình trạng khẩn cấp, dịch bệnh hoặc khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội. Ví dụ: trộm trong lúc có bạo loạn.
14- Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác hoặc thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người.
Thủ đoạn xảo quyệt tàn ác là mánh khoé, cách thức thực hiện tội phạm thâm hiểm làm cho người bị hại hoặc người khác khó lường thấy để đề phòng. Ví dụ: Giả vờ âu yếm tình nhân rồi giết họ.
15- Xúi giục người chưa thành niên phạm tội.
16- Có hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm. Là trường hợp sau khi phạm tội người phạm tội đã có những thủ đoạn tinh vi, hoặc có những hành động bạo lực nhằm mục đích trốn tránh, cản trở việc điều tra phát hiện tội phạm.
Chú ý:
- Các tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.
- Chỉ các tình tiết trên mới được coi là các tình tiết tăng nặng TNHS. (Khoản 2, Điều 48).
- Khi có nhiều tình tiết tăng nặng cũng chỉ được phép quyết định một mức hình phạt nằm trong giới hạn của khung hình phạt mà điều luật quy định.
Có thể thể hiện mối tương quan về mặt thời gian giữa những lần phạm tội trong những trường hợp mà bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau để áp dụng các tình tiết tăng nặng như sau:
Hành vi phạm tội lần 1 |
Thực hiện tội phạm |
Khởi tố |
Truy tố |
Xét xử |
Thi hành án |
Chấp hành xong bản án |
Xoá án tích |
Hành vi phạm tội lần 2 |
Xử nhiều tội hoặc phạm tội nhiều lần hoặc phạm tội có tính chất chuyên nghiệp |
Xử nhiều tội |
PT đang trong thời gian chấp hành án |
Tái phạm, tái phạm nguy hiểm |
|
Tổ bộ môn Luật Hình sự - Khoa Luật Trường Đại học Hòa Bình,tổng hợp
- Nội dung trong bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (chú thích rõ trong bài viết).
- Bài viết được sử dụng không nhằm mục đích thương mại, chỉ nhằm mục đích giảng dạy, tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật, trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa Khoa Luật Kinh tế - Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, quý Vị vui lòng liên hệ với các luật sư, luật gia của Công ty Luật TNHH Everest và Khoa Luật Kinh tế - Đại học Hòa Bình, qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], hoặc trực tiếp tại địa chỉ Khoa Luật kinh tế Đại học Hòa Bình, số 8 phố Bùi Xuân Phái, Nam Từ Liêm, Hà Nội.
Bình luận