Hợp đồng làm việc xác định thời hạn được ký kết giữa người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập với người trúng tuyển vào viên chức.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (25/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Phạm Văn Lâm - Tổ tư vấn pháp luật Lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Thứ nhất, do anh không nói rõ hợp đồng anh ký kết với chủ sử dụng lao động có thời hạn bao lâu, nhưng với dữ liệu anh nêu, có giáo viên dạy tới 5-8 năm, nên hợp đồng này, chúng tôi tạm thời coi là hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong quan hệ lao động giữa anh và Phòng giáo dục huyện X.
Căn cứ Thông tư số 15/2013/TT-BNV quy định hướng dẫn ký kết hợp đồng làm việc: Điều 11. Hợp đồng làm việc xác định thời hạn: “1. Hợp đồng làm việc xác định thời hạn được ký kết giữa người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập với người trúng tuyển vào viên chức”.
Theo đó, Hợp đồng làm việc chỉ được ký kết giữa người trúng tuyển viên chức, công chức với người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập, cơ quan sử dụng công chức. Anh chưa trúng tuyển viên chức, do đó, giữa anh và Phòng đào tạo được xác lập quan hệ lao động dưới hình thức là hợp đồng lao động không xác định thời hạn, với mức lương tính theo hệ số 2,1.
Với thời hạn làm việc lâu dài như vậy, không phải thời gian thử việc, thì anh phải được hưởng mức lương 100% được tính như sau: Mức lương cơ sở x hệ số 2,1 + phụ cấp (nếu có).
Mức lương 85% và không được nâng bậc lương theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức chỉ áp dụng đối với tập sự (khi đã trúng tuyển viên chức, công chức) và áp dụng với người thử việc theo quy định của pháp luật về lao động. Việc phòng Giáo dục tính lương cho anh và các đồng nghiệp của anh như vậy là không đúng với quy định pháp luật lao động về tiền lương cho người lao động theo hợp đồng lao động.
Thứ hai, Căn cứ theo Nghị định 29/2012/NĐ-CP quy định về quản lý, tuyển dụng viên chức: Điều 19. Ký kết hợp đồng làm việc và nhận việc: “1. Trong thời hạn chậm nhất là 20 ngày làm việc, kể từ ngày công bố kết quả tuyển dụng, người trúng tuyển viên chức phải đến ký hợp đồng làm việc với đơn vị sự nghiệp công lập theo thông báo quy định tại Khoản 3 Điều 17 Nghị định này. 2. Trong thời hạn chậm nhất là 20 ngày làm việc, kể từ ngày hợp đồng làm việc được ký kết, người trúng tuyển phải đến nhân việc, trừ trường hợp hợp đồng làm việc quy định thời hạn khác. Trường hợp người trúng tuyển có lý do chính đáng mà không thể đến nhận việc thì phải làm đơn xin gia hạn trước khi kết thúc thời hạn nêu trên gửi cơ quan, đơn vị có thẩm quyền tuyển dụng viên chức. 3. Trường hợp người trúng tuyển không đến ký hợp đồng làm việc trong thời hạn quy định tại Khoản 1 Điều này hoặc đến nhận việc sau thời hạn quy định tại Khoản 2 Điều này thì người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng viên chức hủy bỏ kết quả trúng tuyển hoặc chấm dứt hợp đồng đã ký kết”.
Theo đó, có thể hiểu, trước khi tham gia thi tuyển viên chức, anh và Phòng giáo dục đã có hợp đồng lao động không xác định thời hạn, với tư cách là người lao động theo quan hệ lao động mà Luật Lao động 2012 điều chỉnh. Sau đó, anh tham gia thi tuyển viên chức, nhưng không trúng tuyển. Tuy nhiên, người sử dụng lao động lại đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với lý do anh không trúng tuyển viên chức. Theo căn cứ trên, người sử dụng lao động chỉ có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với viên chức nếu anh đã trúng tuyển, nhận được quyết định trúng tuyển mà không đến làm việc quá thời hạn 20 ngày kể từ ngày ký hợp đồng làm việc với tư cách là viên chức hoặc quá 20 ngày và thời hạn đã được gia hạn từ ngày nhận được quyết định mà anh không đến ký kết hợp đồng.
Với quan hệ lao động hiện tại giữa anh và phòng giáo dục, không được xác lập trên cơ sở là hợp đồng làm việc với viên chức, do đó, phòng đào tạo không thể đơn phương chấm dứt hợp đồng với lý do này được. Mà quan hệ lao động theo hợp đồng lao động giữa anh và Phòng giáo dục hiện vẫn đang tồn tại.
Nếu phòng giáo dục muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với anh, phải căn cứ vào các trường hợp người sử dụng lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà Bộ Luật Lao động 2012 quy định tại Điều 38 về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động: “1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây: a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động; b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động; c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc; d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này. 2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước: a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn; b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn; c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng”.
Ngoài những căn cứ trên, Phòng giao dục đơn phương chấm dứt hợp đồng với anh sẽ được coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
Tóm lại, anh phải được hưởng 100% tiền lương theo hợp đồng lao động được tính trên mức lương cơ sở x hệ số, chứ không phải là chỉ hường 85%, và việc Phòng giáo dục chấm dứt hợp đồng với anh với lý do trên là không đúng với quy định của pháp luật. Anh có thể căn cứ vào những lý luận trên để đưa ra yêu cầu bảo vệ quyền lợi cho mình và đồng nghiệp.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận