Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ.
Hỏi: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tại khoản 4 Điều 44 ghi nhận việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng nhằm tránh trường hợp một bên vợ hoặc chồng thiếu trách nhiệm đối với đời sống chung của gia đìnhTuy nhiên, trong một số trường hợp quy định về việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng còn có thể bị lợi dụng để nhằm trốn tránh nghĩa vụ riêng: Ví dụ: Trước khi kết hôn với chị H anh M được bố mẹ cho căn nhà để làm tài sản riêng, khi kết hôn với chị H anh M lái xe taxi để nuôi sống gia đình. Do cờ bạc nên anh M có vaynợ của ông C. Nên anh M đã quyết định không đi làm nữa và cho người khác thuê căn nhà ở tầng một làm cửa hàng và hai vợ chồng sống trên tầng hai; Gia đình anh M và chị H sống nhờ vào số tiền cho thuê nhà đó. Việc làm của anh M nhằm đưa ngôi nhà trở thành tài sản sử dụng chung và có lợi tức là nguồn sống duy nhất của gia đình nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho ông C vì khi muốn bán căn nhà thì cần phải có sự đồng ý của chị H nữa. Trong trường hợp này mình phải giải quyết thế nào cho hợp lý? Và theo Luật sư có kiến nghi gì về vấn đề này không? (Phượng Nguyễn - Nam Định)
Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Điều44. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng: "4. Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ".
Việc biến tài sản riêng thành nguồn sống duy nhất của gia đình không có nghĩa rằng anh H có thể trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Điều đó chỉ có nghĩa rằng việc định đoạt tài sản đó như bán, tặng cho, cho thuê... cần phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Trong trường hợp này ông C có thể khởi kiện vụ án dân sự đòi thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2005:
"Điều474.Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận.
5. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ".
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận