-->

Tư vấn về thực hiện nghĩa vụ đối với tài sản thừa kế.

Điều 637 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Hỏi: Vợ tôi có mảnh đất thế chấp cho ngân hàng để vay vốn. Số vốn trên tôi không có sử dụng mà do bên vợ sử dụng. Nhưng tôi là chồng nên có ký vào người thừa kế. Đến nay mẹ vợ tôi không có tiền trả nên ngân hàng thưa ra tòa xin hỏi với người thừa kế đã ký vào đơn tôi có phải chịu trách nhiệm trả lãi và gốc cho ngân hàng không? Vì ngân hàng cứ theo tôi đòi nợ hoài mà không đòi chủ sở hữu mảnh đất như vậy có đúng không? Ngân hàng còn bảo nếu tôi không thay người nhà trả nợ thì thưa tôi ra tòa sẽ mất việc làm. Xin luật sư giải thích giúp dùm tôi. Nếu tôi muốn từ bỏ quyền thừa kế mảnh đất đó có được không? Làm như thế nào để từ bỏ quyền thừa kế đó? (Thanh Tình - Hải Dương)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Về nghĩa vụ chung của vợ chồng:

Theo quy định tại Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình quy định nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập là nghĩa vụ chung của vợ chồng.

Như vậy, nếu trên giấy vay nợ của ngân hàng có chữ ký của hai vợ chồng với tư cách là người vaythì nghĩa vụ trả nợ là nghĩa vụ chung của vợ chồng bạn với ngân hàng. Việc ai sử dụng khoản tiền vay đó là do vợ chồng bạn quyết định, ngân hàngchỉ xem xét nghĩa vụ trả nợ trên giấy tờ vay vốn với ngân hàng.

Đối với giao dịch do một bên thực hiện, Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”.

Tuy nhên, theo như bạn trình bày thì mảnh đất trên thuộc sở hữu của vợ bạn, bạn chỉ ký với tư cách là người thừa kế. Đồng thời giao dịch vay vốn trên hoàn toàn do bên vợ bạn thực hiện, không được thực hiện vào mục đích sinh hoạt chung của gia đình.Do vậy, nghĩa vụ trả nợ là nghĩa vụ riêng của người vợ. Nếu người vợ chết mà vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì nghĩa vụ này được chuyển giao cho những người thừa kế.

Về nghĩa vụ của người hưởng di sản thừa kế.

Điều 637 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Theo quy định trên thì nghĩa vụ trả nợthuộc về những người thừa kế di sản của người chết để lại. Nếu có di chúc thì những người được hưởng thừa kế theodi chúc sẽ có nghĩa vụ trả nợ tương ứng với phần di sản mà họ nhận được. Trong trường hợp di sản được chia theo pháp luật, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của vợ bạn gồm: chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi (nếu có).

Trong trường hợp di sản đã chia thì những người hưởng thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng, nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình nhận.

Đối với việc từ chối nhận di sản thừa kế, Điều 642 Bộ luật dân sự quy định người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

Như vậy, bạn không được từ chối nhận di sản khi việc từ chối nhận di sản thừa kế đối với mảnh đất mà vợ bạn để lại nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ trả nợ phát sinh từ việc thế chấp quyền sử dụng đất.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.