-->

Xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng sau ly hôn?.

Hỏi: Năm 1980, tôi và chồng kết hôn. Sau đó chúng tôi được mẹ chồng cho 1 ngôi nhà với diện tích 200m2 . Năm 1998 vợ chồng tôi bán nhà được 120 triệu và mua nhà mới với giá 240 triệu. Nhà này đứng tên anh A - chồng của tôi. Tháng 7/2015 vợ chồng li hôn. Chúng tôi ra Toà và được xác nhận ngôi nhà là tài sản riêng của chồng cũ. Ngoài ra tài sản chung của vợ chồng chúng tôi là 2,8 tỷ. Toà phúc thẩm phân chia cho tôi 600 tiền chênh lệch của giá trị nhà ở tính đến hiện tại và chia đôi số tài sản chung ( tức 1.4 tỉ). Sau khi li hôn chồng cũ của tôi bán nhà cho chị C với giá 3,2 tỷ và chị C đã sang tên ngôi nhà. Tuy nhiên tháng 3/2016 toà đã xử lại và tôi chứng minh ngôi nhà là sản chung của 2 vợ chồng. Đề nghị Luật sư tư vấn, hướng giải quyết chung trong trường hợp tôi không muốn bán ngôi nhà này sau khi chứng minh đây là tài sản chung của 2 vợ chồng? Hoặc trong trường hợp tôi đồng ý với điều kiện bán nhà của chị C và chồng cũ thì tôi có được hưởng quyền lợi gì hay không? (Minh Hà)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Nguyễn Phương Thảo - Tổ tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo thông tin anh (chị) cung cấp tháng 3/2016 Tòa án xét xử lại tuyên tài sản là ngôi nhà được mẹ chồng tặng cho cả hai vợ chồng nên được xác định là tài sản chung của vợ chồng và khi ly hôn tài sản này sẽ được mang ra để chia tài sản chung. Tuy nhiên, do bản án ly hôn trước đó đã tuyên đó là tài sản riêng của chồng cũ và trong thời gian 15 ngày sau chị có làm đơn kháng cáo hay không. Trường hợp, không làm đơn kháng cáo thì đương nhiên bản án đã có hiệu lực rồi và việc chồng chị bán tài sản cho chị C không vi phạm gì cả, chị C là người ngay tình nên dù sau đó Tòa án có xét xử lại thì ngôi nhà vẫn thuộc tài sản hợp pháp của bà C. Cụ thể, Bộ luật dân sự 2005:

Điều 138. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

....2. Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.

Nhưng đối với số tiền 3 tỷ 2 thì do đã được xác định là tài sản chung của vợ chồng nên anh (chị) có quyền yêu cầu chồng cũ thỏa thuận để chia lại tài sản. Trường hợp, không thỏa thuận được thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết.

+Trường hợp, chị đã làm đơn kháng cáo ngay khi bản án được tuyên và đã quyết định hủy bản án của Tòa về xác định tài sản riêng thì thời điểm tuyên xác định tài sản là chung của hai vợ chồng. Nếu sau khi tuyên anh (chị) không muốn bán cho chị C nữa thì có quyền tuyên hủy một phần của giao dịch trước đó của chồng cũ và chị C. Số tiền 3,2 tỷ đã nhận thì có nghĩa vụ thanh toán hoàn trả. Trong trường hợp chị vẫn đồng ý bán thì chị có quyền yêu cầu chồng cũ chia tài sản chung sau ly hônvà thanh toán lại cho chị một nửa giá tương ứng là 1,5 tỷ.

Cụ thể, Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình:

Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

...2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huốnglà cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.