Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết
Hỏi: Gia đình em đang xảy ra mâu thuẫn về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. Ông nội em mất được mấy năm nay nhưng trước khi mất không để lại di chúc. ông em có 2 bà vợ. ông có 4 người con với bà cả; 3trai 1 gái. Bà cả cũng đã mất lâu rồi. Ông có 4 người con với bà 2. Có 3 gái 1 trai. Hiện tại bà 2 đang còn sống và muốn nhượng lại hết quyền sử dụng đất cho con trai của bà 2 mà không hỏi ý kiến của các người con còn lại .bố đẻ em trước được ông nội cho 1 mảnh và đã bán rồi .em nhờ luật sư tư vấn cho e liệu bà 2 đó có quyền nhượng lại quyền sở hữu cho con trai bà không. Như thế pháp luật có giải quyết không? (Hữu Tuấn - Hải Dương)
Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Thứ nhất, nguyên tắc phân chia thừa kế:
Trong trường hợp không có di chúc, việc phân chia di sản được thực hiện theo quy định của pháp luật (khoản 1 điều 675 Bộ luật dân sự). Theo đó những người được hưởng thừa kế theo pháp luật và nguyên tắc phân chia được thực hiện theo quy định tại điều 676 Bộ luật dân sự. Cụ thể:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.
Thứ hai, về xác định người được hưởng thừa kế
Theo quy định tại Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam (Luật năm 1959, Luật năm 1986, Luật năm 2000) thì Việt Nam thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Những trường hợp kết hôn vi phạm chế độ một vợ một chồng đều không được pháp luật công nhận trừ trường hợp được quy định tại điểm c mục II.1 Thông tư 60/1978/TT-TANDTC:
“Nếu người chồng tập kết ra Bắc đã lấy vợ khác, người vợ trong Nam vẫn chờ chồng, nay người vợ này yêu cầu xóa bản án để vợ chồng họ chung sống với nhau thì Tòa án phải thụ lý lập hồ sơ và gửi về Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao thuộc quản hạt để giải quyết như trong trường hợp đã nói ở điểm a trên. Kết quả của việc hủy bản án dẫn đến tình trạng một chồng hai vợ, mà quyền lợi cả cả hai người vợ đều hợp pháp, đều cần được bảo vệ. Tòa án nhân dân cần giải thích khuyên họ tự thu xếp cuộc sống trong gia đình sao cho ổn thỏa”.
Vì bạn không cung cấp cụ thể thông tin ông bạn có thuộc trường hợp được quy định tại điểm c mục II.1 thông tư nói trên hay không nên chúng tôi đặt giả thiết như sau:
- Trường hợp 1: ông bạn thuộc trường hợp được quy định tại điểm c mục II.1 thông tư 60
Trong trường hợp này những người được chia thừa kế bao gồm: các con và vợ 2 của ông bạn. Lúc này các con và vợ 2 của ông bạn là đồng chủ sở hữu (theo phần) của mảnh đất thừa kế. Mỗi người được hưởng phần bằng nhau của giá trị mảnh đất. Như vậy vợ 2 của ông bạn chỉ có quyền chuyển nhượng đối với giá trị quyền sử dụng đất trong phạm vi mình được hưởng thừa kế.
- Trường hợp 2: ông bạn không thuộc trường hợp được quy định tại điểm c mục II.1 thông tư 60
Trong trường hợp này, những người được chia thừa kế chỉ bao gồm các con của ông bạn. Như vậy chỉ những người được hưởng thừa kế này mới có quyền định đoạt giá trị quyền sử dụng đất trong phạm vi thừa kế của mình.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận