Vai trò và các hình thức cơ bản của pháp luật

Nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy nhà nước.

1. Vai trò của pháp luật

Với bản chất những đặc điểm đặc thù của mình, pháp luật có nhiều vai trò trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội, trong đó có những vai trò cơ bản là:
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Thứ nhất, Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước

Một trong những nguyên lý đã được khẳng định là nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy nhà nước. Trong khoa học có những ý kiến nhấn mạnh ý nghĩa tuyệt đối của quyền lực nhà nước, coi đó là cái phát sinh cái thứ nhất, còn pháp luật chỉ là cái phái sinh (cái thứ hai); hoặc coi pháp luật đứng trên nhà nước, nhà nước phải tuyệt đối phục tùng pháp luật... là chưa có cơ sở xác đáng, bởi vì:

- Thứ nhất, đúng là pháp luật do nhà nước ban hành, nhưng pháp luật không phải chỉ là kết quả của tư duy chủ quan một cách đơn thuần, mà nó còn xuất phát từ những nhu cầu khách quan của xã hội. Pháp luật chỉ có thể đi vào cuộc sống nếu như nó phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội.

- Thứ hai, pháp luật cũng còn cần có quyền lực nhà nước bảo đảm mới có thể phát huy tác dụng trong thực tế đời sống. Vì vậy nói pháp luật đứng trên nhà nước là không thực tiễn.

- Thứ ba, nhu cầu về pháp luật còn là nhu cầu tự thân của bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước là một thiết chế phức tạp hao gồm nhiều bộ phận (nhiều loại cơ quan nhà nước).

Để bộ máy đó hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi loại cơ quan, mỗi cơ quan; phải xác lập mối quan hệ đúng đắn giữa chúng; phải có những phương pháp tổ chức và hoạt động phù hợp để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên cơ sở vững chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật.

Thực tiễn cho thấy, khi chưa có một hệ thống quy phạm pháp luật về tổ chức đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho việc củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước thì dễ dẫn đến tình trạng trùng lặp, chồng chéo, thực hiện không đúng chức năng, thẩm quyền của một số cơ quan nhà nước, bộ máy sẽ sinh ra cồng kềnh và kém hiệu quả.

Tương tự như trên, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi loại cán bộ, mỗi cán bộ làm việc trong từng cơ quan cụ thể của bộ máy nhà nước. Nhờ có pháp luật, các hiện tượng lạm quyền, bao biện, vô trách nhiệm... của đội ngũ viên chức nhà nước dễ dàng được phát hiện và loại trừ.

Thứ hai, Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, xã hội

Nhà nước là đại diện chính thức của toàn thể xã hội, vì vậy, nhà nước có chức năng (nhiệm vụ) quản lý toàn xã hội. Để quản lý toàn xã hội, nhà nước dùng nhiều phương tiện, nhiều biện pháp, nhưng pháp luật là phương tiện quan trọng nhất. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn nhất. Cũng nhờ có pháp luật, nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực của mình và kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của các tổ chức, các cờ quan, các nhân viên nhà nước và mọi công dân.

Trong tổ chức và quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai trò lớn. Bởi vì, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước có phạm vi rộng và phức tạp, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ mà nhà nước cần xác lập, điều hành và kiểm soát như hoạch định chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá... Toàn bộ quá trình tổ chức và quản lý đều đòi hỏi sự hoạt động tích cực của nhà nước nhằm tạo ra một cơ chế đồng bộ, thúc đẩy quá trình phát triển đúng hướng của nền kinh tế và mang lại hiệu quả thiết thực.

Đã tính chất phức tạp và phạm vi rộng của chức năng quản lý kinh tế, nhà nước không thể trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế cụ thể mà chỉ thực hiện việc quản lý ở tầm vĩ mô và mang tính chất hành chính - kinh tế. Quá trình quản lý kinh tế không thể thực hiện được nếu không dựa vào pháp luật.

Chỉ trên cơ sở một hệ thống văn bản pháp luật kinh tế đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với thực tiễn (điều kiện và trình độ phát triển của kinh tế xã hội) và kịp thời trong mỗi thời kỳ cụ thể, nhà nước mới có thể phát huy được hiệu lực của mình trong lĩnh vực tổ chức và quản lý kinh tế, xã hội.

Thứ ba, Pháp luật góp phần tạo dưng những quan hệ mới

Bên cạnh chức năng phản ánh, pháp luật còn có tính tiên phong, định hướng cho sự phát triển của các quan hệ xã hội.

Có thể nói, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc tạo dựng (lập) ra những quán hệ mới. Trên cơ sở xác định thực trạng xã hội với những tình huống (sự kiện) cụ thể, điển hình, tồn tại và tái diễn thường xuyên Ơ những thời điểm cụ thể trong xã hội, nhà nước đề ra pháp luật để điều chỉnh kịp thời và phù hợp. Nhưng cuộc sống vốn sống động và thực tiễn thường diễn ra với những thay đổi thường xuyên. Tuy nhiên, về căn bản những thay đổi đó vẫn diễn ra theo những quy luật nhất định mà con người có thể nhận thức được.

Dựa trên cơ sở của những kết quả và dự báo khoa học, người ta có thể dự kiến được những thay đổi có thể diễn ra với những tình huống (sự kiện) cụ thể, điển hình cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật. Từ đó pháp luật được đặt ra để định hướng trước, xác lập những quy định và có thể thiết kế những mô hình tổ chức quy định chức năng nhiệm vụ và thử nghiệm ...

Tuy vậy, pháp luật bao giờ cũng có sự ổn định tương đối. Sự hình thành mới hoặc thay đổi thường chỉ diễn ra với từng bộ phận của hệ thống pháp luật, ít có những đột biến toàn phần trong một thời gian ngắn. Tính định hướng của pháp luật cũng theo quy luật đó. Hệ thống quy phạm định hướng chỉ là một bộ phận nhất định của hệ thống pháp luật thực định của mỗi quốc gia.

Sự kết hợp hài hòa giữa tính cụ thể của pháp luật với tính tiên phong (định hướng) của nó có một ý nghĩa rất quan trọng là tạo ra được sự ổn định và phát triển, kế thừa và đổi mới thường xuyên, làm cho pháp luật năng động, phù hợp hơn, tiến bộ hơn.

Thứ tư, Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia

Có một thực tế là, một thể chế chính trị có thể thay đổi, nghĩa là quyền lực của một bộ máy nhà nước trong một thời kỳ lịch sử nhất định có thể thay đổi, nhưng nhân dân và quyền lực nhân dân vẫn tồn tại và phát triển. Những quan hệ đa chiều trong xã hội vẫn phát triển và đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng pháp luật để bảo đảm sự ổn định trật tự. Vì vậy, quyền lực nhân dân là vấn đề căn bản; trật tự xã hội là đòi hỏi khách quan và những nhu cầu về pháp luật là luôn luôn có.

Pháp luật và nhà nước luôn có quan hệ mật thiết với nhau "như hình với bóng". Nhưng đó là nói ở góc độ chung. Khi tiếp cận ở góc độ cụ thể, pháp luật có những nét riêng căn bản. Đó là khi pháp luật phản ánh đúng những lợi ích của dân tộc, của nhân dân thì dù chế độ nhà nước nào cũng phải tôn trọng. Nếu đi ngược lại điều đó là ngược với lợi ích của dân tộc, của nhân dân và sẽ bị nhân dân phản đối, không tôn trọng, không chấp hành. Xét ở góc độ này, pháp luật luôn có vai trò giữ gìn sự ổn định và trật tự xã hội. Sự ổn định của mỗi quốc gia là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm tin, là cơ sở để mở rộng các mối bang giao với các thuốc khác. Trong thời đại ngày nay, phạm vi của các mối quan hệ bang giao giữa các nước ngày càng lớn và nội dung tính chất của các quan hệ đó ngày càng đa diện (nhiều mặt). Cơ sở cho việc thiết lập và củng cố các mối quan hệ bang giao đó là pháp luật (pháp luật quốc tế và pháp luật nội quốc) Xuất phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp luật của mỗi nước cũng có bước phát triển mới:

Bên cạnh những văn bản pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến các chủ thể pháp luật trong nước còn cần có đầy đủ các văn bản pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ có liên quan đến các chủ thể là người (tổ chức) nước ngoài có quan hệ hợp tác với các chủ thể trong nước, ví dụ: luật đầu tư, luật về khoa học và công nghệ...

Cũng cần nhấn mạnh rằng, muốn có môi trường xã hội ổn định để mở mang các mối bang giao và hợp tác thì không thể chỉ chú ý "một mảng" của hệ thống pháp luật của một quốc gia, mà phải chú ý tới sự đồng bộ của cả hệ thống pháp luật của quốc gia đó. Bởi vì, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là một chỉnh thể, mỗi bộ phận (mỗi mảng) trong hệ thống pháp luật đó không thể tồn tại và phát triển biệt lập, cục bộ được mà luôn có quan hệ và tác động qua lại với các bộ phận khác.

Như vậy, muốn thực hiện tết sự quản lý nhà nước, đẩy nhanh sự phát triển của xã hội, mở rộng quan hệ và hợp tác với các nước thì phải chú trọng phát huy vai trò của pháp luật, phải nhanh chóng xây dựng một hệ thống pháp luật toàn diện, đầy đủ và đồng bộ, phù hợp với những điều kiện và hoàn cảnh trong nước, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển chung với tình hình quốc tế và khu vực.
Tìm hiểu chi tiết tại:Luật Hành chính Việt Nam


Kiểu pháp luật là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù của pháp luật, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển của pháp luật trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Học thuyết Mác-Lênin về các hình thái kinh tế xã hội là cơ sở để phân định kiểu pháp luật. Đặc điểm của mỗi hình thái kinh tế xã hội trong xã hội có giai cấp sẽ quyết định những dấu hiệu cơ bản của pháp luật. Phù hợp với điều đó, trong lịch sử đã tồn tại bốn kiểu pháp luật:
  • Kiểu pháp luật chủ nô;
  • Kiểu pháp luật phong kiến;
  • Kiểu pháp luật tư sản;
  • Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Ba kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến và tư sản là những kiểu pháp luật bóc lột được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Cho nên, mặc dù mỗi kiểu có bản chất và có cách thể hiện riêng của mình nhưng chúng đều có một đặc điểm chung là thể hiện ý chí của giai cấp bóc lột trong xã hội, củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, bảo đảm về mặt pháp lý sự áp bức bóc lột giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động, duy trì tình trạng bất bình đẳng trong xã hội.

Khác với các kiểu pháp luật trên, pháp luật xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chiếm tuyệt đại đa số dân cư trong xã hội. Mục đích của pháp luật xã hội chủ nghĩa là thủ tiêu mọi hình thức áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới trong đó mọi người đều bình đẳng và tự do.

Sự thay thế kiểu pháp luật này bằng một kiểu pháp luật khác tiến bộ hơn là một quy luật tất yếu. Cơ sở khách quan của sự thay thế đó là sự vận động của quy luật kinh tế: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự thay thế các kiểu pháp luật gắn liền với sự thay thế của các hình thái kinh tế xã hội tương ứng. Cách mạng là con đường dẫn đến những thay thế đó. Các cuộc cách mạng xã hội khác nhau diễn ra trong lịch sử đã đem lại kết quả: Pháp luật phong kiến thay thế pháp luật chủ nô, pháp luật tư sản thay thế pháp luật phong kiến, pháp luật xã hội chủ nghĩa thay thế pháp luật tư sản. Trong tương lai pháp luật xã hội chủ nghĩa sẽ tiêu vong và sau đó sẽ không còn kiểu pháp luật nào thay thế nữa. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, pháp luật xã hội chủ nghĩa cần được xây dựng hoàn thiện để phát huy cao độ vai trò là một công cụ sắc bén bảo đảm cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.

3. Các hình thức pháp luật

Hình thức pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp mình lên thành pháp luật. Trong lịch sử đã có ba hình thức pháp luật là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản pháp luật.

Tập quán pháp

Là hình thức nhà nước thừa nhận một số tập quán đã lưu truyền trong xã hội, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, nâng chúng thành những quy tắc xử sự chung được nhà nước bảo đảm thực hiện. Đây là hình thức pháp luật xuất hiện sớm nhất và được sử dụng nhiều trong các nhà nước chủ bờ và nhà nước phong kiến. Trong nhà nước tư sản, hình thức này vẫn được sử dụng nhiều, nhất là ở các nước có chế độ quân chủ.

Vì tập quán hình thành một cách tự phát, ít biến đổi và có tính cục bộ, cho nên hình thức tập quán pháp về nguyên tắc không phù hợp với bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, cũng có một số tập quán thể hiện truyền thống và đạo đức dân tộc, có tác dụng tốt trong việc hình thành tính cách con người mới xã hội chủ nghĩa và làm phong phú đời sống văn hóa nhân dân. Vì vậy, các nhà nước xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn thừa nhận một số tập quán tiến bộ tuy nhiên ở mức độ hạn chế.

Tiền lệ pháp

Là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan hành chính hoặc xét xử giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng đối với các vụ việc tương tự. Hình thức này đã được sử dụng trong các nhà nước chủ nô, được sử dụng rộng rãi trong các nhà nước phong kiến và hiện nay vẫn chiếm vị trí quan trọng trong pháp luật tư sản, nhất là ở Anh, Mỹ (đặc biệt là trong dân luật).

Tiền lệ pháp hình thành không phải do hoạt động của cơ quan lập pháp mà xuất hiện từ hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp. Vì vậy, hình thức này dễ tạo ra sự tùy tiện, không phù hợp với nguyên tắc pháp chế đòi hỏi phải tôn trọng nguyên tắc tối cao của luật và phải phân định rõ chức năng, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật.

Tuy nhiên, trên thực tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ (nhất là thời kỳ sau cách mạng), do hệ thống pháp luật chưa được xây dựng hoàn chỉnh, trước yêu cầu của cách mạng cần phải giải quyết ngay một số vụ việc, trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn còn sử dụng hình thức này. Nhưng đó là sự vận dụng linh hoạt dựa trên cơ sở của luật và đường lối chính sách của Đảng. Khi hệ thống pháp luật được xây dựng đồng bộ, hoàn chỉnh thì hình thức này không còn tồn tại trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Văn bản quy phạm pháp luật

Là hình thức pháp luật tiến bộ nhất. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong đó quy định những quy tắc xử sự chung (quy phạm đối với mọi người) được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội. Có nhiều loại văn bản pháp luật. Ơ mỗi nước, trong những điều kiện cụ thể có những quy định riêng về tên gọi và hiệu lực pháp lý của các loại văn bản pháp luật. Nhưng nhìn chung, các văn bản pháp luật đều được ban hành theo một trình tự thủ tục nhất định và chứa đựng những quy định cụ thể (các quy phạm pháp luật).

Trong pháp luật chủ nô và phong kiến, các văn bản pháp luật còn chưa hoàn chỉnh và kỹ thuật xây dựng chưa cao. Nhiều đạo luật chỉ là sự ghi chép lại một cách có hệ thống các án lệ và các tập quán đã được thừa nhận. Pháp luật tư sản đã có nhiều hình thức văn bản phong phú và được xây dựng với kỹ thuật cao. Đặc biệt ở giai đoạn đầu, sau khi cách mạng tư sản thành công, nguyên tắc pháp chế được đề cao đã làm cho pháp luật tư sản có hệ thống văn bản tương đối thống nhất dựa trên cơ sở của luật. Nhưng với bản chất của nó cho nên sau thắng lợi hoàn toàn đối với chế độ phong kiến, giai cấp tư sản tự mình phá vỡ nguyên tắc pháp chế do mình đề ra bằng nhiều cách như hạ thấp vai trò của nghị viện, mở rộng quyền của tổng thống và chính phủ, sử dụng rộng hình thức tập quán pháp và tiền lệ pháp. Bằng cách đó, giai cấp tư sản đã phá vỡ tính thống nhất theo nguyên tắc pháp chế của các văn bản pháp luật; kỹ thuật xây dựng văn bản cao được sử dụng để che đậy bản chất của pháp luật tư sản.

Pháp luật xã hội chủ nghĩa có hệ thống các văn bản thống nhất được xây dựng theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tôn trọng tính tối cao của hiến pháp và luật. Hệ thống các văn bản pháp luật xã hội chủ nghĩa ngày càng được xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ với kỹ thuật cao phản ánh đúng bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Tổ bộ môn Luật Dân sự - Khoa Luật Trường Đại học Hòa Bình,tổng hợp


Liên kết đào tạo và hợp tác việc làm giữa Trường Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest là hoạt động cần thiết để giải quyết thực trạng chênh lệch giữa nhu cầu của doanh nghiệp và sự đáp ứng của nhà trường. Hướng đến mục tiêu đào tạo 100% sinh viên có việc làm sau khi trường, Trường Đại học Hòa Bình triển khai liên kết chặt chẽ với Công ty Luật TNHH Everest trong công tác đào tạo sinh viên và tạo điều kiện việc làm cho sinh viên mới ra trường. Để được tư vấn pháp luật, Quý khách vui lòng gọi tới tổng đài 19006198.