-->

Tư vấn về việc bồi thường đất khi không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Người bị thu hồi đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì vẫn được bồi thường theo quy định của pháp luật.

Hỏi: Tôi có mua một thửa đất 400 m2 bằng giấy tờ viết tay năm 1987 (đất do hộ gia đình người bán khai hoang từ năm 1980). Đầu năm 2015, UBND phường thông báo thửa đất sẽ bị thu hồi và tiến hành đo đạc kiểm đếm, diện tích thực tế của tôi còn 389 m2. Theo phương án dự thảo mà UBND Quận gửi cho tôi thì diện tích 389 m2 của tôi trong đó có 160 m2 đất sản xuất nông nghiệp chưa giao, 239 m2 đất đường mương đều thuộc quản lý của UBND phường. Trong phương án dự thảo đền bù, gia đình tôi chỉ được tính trên phần diện tích 160 m2. Vậy tôi muốn hỏi là phương án như vậy là đã đúng quy định hay chưa? Chúng tôi có thể làm gì để được đền bù đủ 389 m2 (theo diện tích thực tế)? (Đinh Thu Trang - Hà Nội)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Trần Thu Trang – Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest – trả lời:

Theo như bạn trình bày có thể hiểu thửa đất này chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà chỉ có hợp đồng mua bán bằng giấy tờ viết tay.

Điều 13 Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định bồi thường về đất cho người đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất như sau:

"1. Khi Nhà nước thu hồi đất mà người sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP mà đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 101 và Điều 102 của Luật Đất đai, các Điều 20, 22, 23, 25, 27 và 28 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì được bồi thường về đất.

2. Trường hợp người có đất thu hồi được bồi thường bằng tiền thì số tiền bồi thường phải trừ khoản tiền nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật về thu tiền sử dụng đất; thu tiền thuê đất, thuê mặt nước."

Trường hợp của gia đình bạn, tuy không có giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013 nhưng do đất đã đượcsử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 vàtại thời điểm sử dụng đất (năm 1987) thì gia đình bạn không hề vi phạm pháp luật đất đai; vi phạmquy hoạch sử dụng đất nên theo quy định trên gia đình bạn sẽ được bồi thường đối với diện tích 389 m2.

Trường hợp này để đảm bảo quyền lợi của gia đình mình, bạn có thể khiếu nại quyết định thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng đến cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Khoản 6 Điều 17 Nghị định 43/2014/NĐ-CP như sau:

"Người có đất thu hồi, tổ chức, cá nhân có liên quan có quyền khiếu nại về việc thu hồi đất theo quy định của pháp luật về khiếu nại.

Trong khi chưa có quyết định giải quyết khiếu nại thì vẫn phải tiếp tục thực hiện quyết định thu hồi đất, quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có kết luận việc thu hồi đất là trái pháp luật thì phải dừng cưỡng chế nếu việc cưỡng chế chưa hoàn thành; hủy bỏ quyết định thu hồi đất đã ban hành và bồi thường thiệt hại do quyết định thu hồi đất gây ra (nếu có).

Đối với trường hợp việc thu hồi đất có liên quan đến quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân khác trong việc sử dụng đất theo quy định của pháp luật khác có liên quan thì Nhà nước tiến hành thu hồi đất, cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất theo quy định mà không phải chờ cho đến khi giải quyết xong quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc sử dụng đất giữa người có đất thu hồi và tổ chức, cá nhân đó theo quy định của pháp luật có liên quan."

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.