-->

Tư vấn về hợp đồng mua bán đất?

Không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của bên mua theo hợp đồng mua bán được xem là vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005.

Hỏi: Tôi bán một lô đất với giá 600 triệu đồng, tôi có trách nhiệm làm thủ tục sang tên đổi chủ cho bên mua, và bên mua khi ra công chứng mua bán, bên mua đưa cho tôi trước 100.000.000 đồng, và sẽ thanh toán đủ cho tôi 500.000.000 đồng còn lại sau khi hoàn thành thủ tục sang tên đổi chủ. Vậy nếu sau này tôi làm xong thủ tục sang tên đổi chủ mà bên mua không chịu thanh toán số tiền còn lại thì tôi có lấy lại được đất không? (Đỗ Mỹ Nam - Hà Nội).

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Vương Tùng Anh - Tổ tư vấn pháp luật hợp đồng của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Hiện nay, pháp luật dân sự không quy định cụ thể trong những trường hợp nào các bên có quyền chấm dứt hay hủy bỏ hợp đồng, cũng không quy định mức độ vi phạm nghĩa vụ cụ thể của các bên đến mức độ nào thì bên còn lại sẽ có quyền đơn phương chấm dứt hay hủy bỏ hợp đồng. Bộ luật Dân sự 2005 đề cao nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên vì thế, với trường hợp của anh (chị), nếu sau nàyanh (chị)làm xong thủ tục sang tên đổi chủ mà bên mua không chịu thanh toán số tiền còn lại thìanh (chị)có thể lấy lại được đất nếu có đủ các điều kiện do pháp luật quy định dưới đây.

Thứ nhất,anh (chị)có thể yêu cầu hủy bỏ hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật vì việc không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của bên mua được xem là vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005: "Điều 438. Nghĩa vụ trả tiền. 1. Bên mua phải trả đủ tiền vào thời điểm và tại địa điểm đã thoả thuận; nếu không có thoả thuận thì phải trả đủ tiền vào thời điểm và tại địa điểm giao tài sản. 2. Bên mua phải trả lãi, kể từ ngày chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 305 của Bộ luật này, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác."

Hoặc trong trường hợpanh (chị)và bên mua có thỏa thuận trong hợp đồng là việc không thanh toán của bên mua là điều kiện hủy bỏ hợp đồng: "Điều 425. Huỷ bỏ hợp đồng dân sự. 1. Một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. 2. Bên huỷ bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc huỷ bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. 3. Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền. 4. Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị huỷ bỏ phải bồi thường thiệt hại."

Việc hủy bỏ hợp đồng chỉ được thực hiện sau khianh (chị)đã có yêu cầu nhưng bên mua không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình. Lúc nàyanh (chị)có thể yêu cầu Tòa án giải quyết nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích của bạn.

Thứ hai, về hậu quả của hợp đồng sau khi bị hủy bỏ theo quy định trên: " Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền". Do đó, trong trường hợp củaanh (chị), nếu hợp đồng bị hủy bỏ thìanh (chị)sẽ được hoàn trả lại phần diện tích đất màanh (chị)đã chuyển nhượng quyền sử dụng.

Do đó, khianh (chị)đã hoàn thành nghĩa vụ của mình,anh (chị)hoàn toàn có quyền yêu cầu bên mua thực hiện nghĩa vụ thanh toán của họ. Đồng thời, nếu việc chậm hoặc không thanh toán của họ gây ra thiệt hại choanh (chị)thìanh (chị)có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự với những thiệt hại vật chất thực tế.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hợp đồng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.