-->

Tư vấn về định đoạt quyền sử dụng đất và chia di sản thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế

Hỏi: Ông bà nội em có 7 người con, trong đó 01 con gái là con riêng của ông với vợ trước, 03 trai, 03 gái là con của 2 ông bà. Bác trai cả ở với vợ 2 ở quảng ninh, để lại vợ cả và 2 con ở quê, ko chăm lo gì ông bà, vợ và con cái. Chú út làm sĩ quan ở sơn tây, lấy vợ và ở luôn trên ấy,dã có nhà cửa đàng hoàng. 2 cô lấy chồng ở làng, 1 cô lấy chồng ở hà nội. Bố em là con thứ 2 nhưng ở với ông bà, chăm lo ông bà đến khi ông bà mất.ông bà và bố mẹ e ở đất đám mạ ngày xưa, khoảng 1 sào năm, ko có sổ đỏ. Năm 1989, bố mẹ em lấy nhau, năm 1992 ông nội em mất. Đến năm 1999, bố mẹ em mua thêm đất, tổng cộng là 2 sào rưỡi, tên sổ đỏ là bố em. Đất hiện tại không có tranh chấp. Ngày xưa, bà nội em có nói là đưa cho chú út 2.500.000 đồng để mua đất trên Sơn Tây, bố mẹ em đã đưa và không có giấy tờ gì làm chứng. Bà nội em mất năm 2003.Bố mẹ em có 4 người con, 3 gái, 1 trai, em đã lấy chồng và chuyển khẩu về nhà chồng, 2 em gái đã đủ 18 và 1 em trai năm nay lên lớp 9.Hiện tại có 2 vấn đề: 1 là bố em có ý định cho đất chú, nếu mẹ e ko đồng ý thì bố em có cho được không? Bọn em có quyền quyết định trong chuyện này hay không? nếu cho được thì sẽ cho bao nhiêu? 2 là: 3 cô con gái có ý định kiện bố mẹ em để đòi chia đất của ông bà, trong khi sổ đỏ tên bố em, ông bà ko để lại di chúc gì. Liệu kiện thì có thành công được không? (Thanh Hương - Hà Đông)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Bố bạn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1999. Bố bạn và ông bà bạn đều là người sử dụng đất ổn định lâu dài và không có tranh chấp quyền sử dụng đất nên theo pháp luật đều có căn cứ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bạn cần xác định trong giấy chứng nhận quyền sử dụng mảnh đất trên là cấp cho hộ gia đình hay là cấp cho cá nhân.

- Nếu là đất cấp cho hộ gia đình thì những người có tên trong sổ hộ khẩu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đồng chủ sở hữu mảnh đất trên.

- Nếu đất cấp cho cá nhân mang tên bố bạn thì bố bạn có toàn quyền định đoạt: mua bán, chuyển nhượng, tặng cho… mà không cần sự đồng ý của những người khác trong hộ.

Do thông tin bạn cung cấp không rõ nên tôi sẽ chia làm hai trường hợp như sau:

Trường hợp thứ nhất: Đất trên được cấp cho hộ gia đình, bố bạn là người đứng tên chủ hộ. Những người có tên trong sổ hộ khẩu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bao gồm: bố bạn, bà bạn và mẹ bạn… là đồng chủ sở hữu quyền sử dụng đất mảnh đất trên.

Bà bạn đã mất năm 2003 mà không để lại di chúc nên di sản thừa kế của bà bạn sẽ được chia theo pháp luật. Di sản thừa kế của bà bạn để lại bao gồm tài sản riêng của bà và một phần trong mảnh đất trên.

Căn cứ theo Điều 676 bộ luật dân sự năm 2005 quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.

Như vậy, những người được hưởng di sản thừa kế của bà bạn là những người ở hàng thừa kế thứ nhất bao gồm các con của bà bạn. Mỗi người sẽ được hưởng một phần di sản bằng nhau. Những người có quyền hưởng di sản thừa kế có thể thỏa thuận hoặc khởi kiện ra Tòa án yêu cầu phân chia di sản thừa kế.

Tuy nhiên, căn cứ theo Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau:

"Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".

Do bà bạn đã mất từ năm 2003, đến nay đã được hơn 10 năm nên đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế nên các cô của bạn không có quyền khởi kiện nữa. Bố bạn là người đang trực tiếp quản lý sử dụng mảnh đất trên thì được tiếp tục quản lý, sử dụng phần đất mà bà bạn để lại.

Tuy nhiên, áp dụng quy định tại tiểu mục 2.4 chương I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP để giải quyết. Cụ thể, các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.

Việc định đoạt quyền sử dụng mảnh đất trên như: mua bán, chuyển nhượng, tặng cho… phải được sự đồng ý của tất cả các đồng sở hữu bằng văn bản và có công chứng hoặc chứng thực. Do thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (năm 1999) anh chị em bạn chưa sinh ra nên dù là đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình thì bạn và anh chị em của bạn không phải đồng chủ sở hữu nên không có quyền định đoạt đối với mảnh đất trên. Như vậy, khi bố bạn thựuc hiện chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất không cần có sự đồng ý của anh chị em bạn.

Trường hợp thứ hai: giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên được cấp cho cá nhân là bố bạn nên bố bạn sẽ có quyền định đoạt đối với mảnh đất trên.

Tuy nhiên, căn cứ theo Điều 33 luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:

"1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung".

Do năm 1989, bố mẹ em lấy nhau, năm 1992 ông nội em mất. Đến năm 1999, bố mẹ bạn mua thêm đất, tổng cộng là 2 sào rưỡi, tên sổ đỏ là bố em. Mảnh đất trên được hình thành trong thời kì hôn nhân nên được xác định là tài sản chung của hai vợ chồng. Nên khi bố bạn định đoạt mảnh đất trên: tặng cho chú của bạn phải có sự đồng ý của mẹ bạn. Nếu mẹ bạn không đồng ý thì bố bạn có thể thực hiện chia tài sản trong thời kì hôn nhân theo Điều 38 luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như sau:

"1. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.

3. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 của Luật này".

Như vậy, sau khi bố bạn thực hiện chia tài sản tài sản chung trong thời kì hôn nhân thì sẽ có quyền định đoạt với phần đất tương ứng thuộc quyền sử dụng của bố bạn. Bố bạn có toàn quyền định đoạt đối với phần đất thuộc quyền sử dụng của mình.
Mảnh đất trên là tài sản chung của bố mẹ bạn nên bố mẹ bạn sẽ có quyền định đoạt: mua bán, tặng cho… anh chị em bạn sẽ không có quyền quyết định hay khi bố mẹ bạn định đoạt quyền sử dụng đất trên thì không cần sự đồng ý của anh chị em bạn.

Do quyền sử dụng đất trên là tài sản chung của bố mẹ bạn nên các cô của bạn sẽ không có quyền yêu cầu chia mảnh đất trên. Các cô của bạn chỉ có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế là tài sản của bà bạn để lại. Tuy nhiên, bà bạn mất từ năm 2003 đến nay đã hết thời hiệu chia di sản thừa kế nên các cô của bạn sẽ không có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế nữa.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.