rong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn.
Hỏi: Vợ chồng em mới kết hôn được 02 năm. Hiện Em đang mang thai tháng thứ 03, chỉ vì vợ chồng không có tiếng nói chung mà chồng đòi đuổi, xúc phạm và ly hôn.Trước khi cưới thì Anh đã có nhà riêng. Sau khi cưới xong thì vợ chồng mua thêm một miếng đất nữa đứng tên chồng nhưng hiện tại vẫn còn thiếu tiền ngân hàng số tiền bằng một nửa giá trị miếng đất. Trong sinh hoạt hằng ngày, tiền lương của Em để lo ăn uống gia đình, còn tiền lương chồng để lo trả nợ tiền đất .Vậy nếu ly hôn em có được quyền lợi gì về tài sản cũng như trợ cấp? (Hạnh Trang - Hà Nội)
Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Thứ nhất, về vấn đề ly hônĐiều 85 Luật HNGĐ năm 2000 về Quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn cụ thể như sau: "1.Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn.2. Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn".
Như vậy, chồng của bạn không được quyền yêu cầu ly hôn khi bạn đang mang thai.
Thứ hai, về vấn đềtài sản
Luật Hôn nhân và gia đình 2000 và Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về tài sản của vợ chồng như sau:
- Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
- Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. Tuy nhiên theo hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP, đối với tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân mà trên giấy chứng nhận quyền tài sản chỉ ghi tên một người thì tài sản vẫn được coi là tài sản chung vợ chồng và cả hai vợ chồng đều có quyền quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản đó (trừ trường hợp người vợ/người chồng chứng minh được đó là tài sản riêng của mình).
Như vậy mảnh đất mua trong thời kỳ hôn nhân của hai bạn là tài sản chung của hai người dù chồng bạn có đứng tên một minh.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận