Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản thừa kế.
Hỏi: Ông bà nội tôi có 6 người con trai và có một xuất đất ở, sau khi ông bà tôi mất thì bác trai tôi về ở tại miếng đất đấy cho đến giờ.Tuy nhiên, trước lúc mất ông bà tôi không để lại di chúc là thừa kế mảnh đất đấy cho ai. Nhưng đến bây giờ thìmảnh đất đấy tự nhiên lạiđược sang tên sổ đỏ mang tên bác trai tôi.Vì vậy, tôi muốn nhờ các luật sư tư vấn giúp tôi nếu 5 người con còn lại của ông bà tôi kiện bác tôi ra tòa để lấy lại xuất đất đấy thì có khả năng thắng kiện không và phần trăm thắng là khoảng bao nhiêu? (Văn Cảnh - Hải Phòng)
Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Do bạn không nói rõ ông bà bạn mất vào năm nào nên chúng tôi đưa ra 2 trường hợp sau:
- Trường hợp 1: Vẫn còn thời hiệu khởi kiện về thừa kế.
Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau:
"Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Thời điểm hiện tại chúng ta đang trao đổi là tháng 8/2015. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người để lại di sản qua đời. Mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế được tính từ thời điểm người để lại di sản qua đời. Vậy, thời điểm mở thừa kế của ông bà bạn phải vào thời gian tháng 8/2005 trở lại đây.
Trường hợp này, 5 người con của ông bà bạn có quyền khởi kiện tại Tòa án yêu cầu phân chia di sản thừa kế theo pháp luật cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất (hàng thừa kế thứ nhất bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi).
- Trường hợp 2: Đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế.
Như phân tích ở trên thì hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế tức là quá thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế đến thời điểm có yêu cầu. Khi đã quá thời hạn thì Tòa án hay bất cứ cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào khác sẽ không giải quyết yêu cầu chia di sản thừa kế.
Trường hợp này, có thể áp dụng quy định sau trong Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình:
"Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:
a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản".
Theo quy định này, khi hết thời hiệu 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế, di sản thừa kế chưa được chia sẽ được coi là tài sản chung của các đồng thừa kế, và nếu có tranh chấp thì sẽ được giải quyết theo pháp luật về phân chia tài sản chung, mà tranh chấp về tài sản chung thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Tuy nhiên, để Tòa án có thể nhận đơn của người khởi kiện, thì người khởi kiện và những đồng thừa kế khác còn cần phải có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc văn bản cùngthừa nhận là di sản thừa kế chưa chia. Do vậy, việc chuẩn bị tài liệu, chứng cứ để khởi kiện cũng là một vấn đề rất quan trọng để Tòa án có thể thụ lý và bảo vệ quyền lợi của người khởi kiện.
Nếu đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế, 5 người con còn lại của ông bà bạn hoàn toàn có thể khởi kiện theo quy định này.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận