-->

Tư vấn hưởng trợ cấp thôi việc trên 20 năm

Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên...

Hỏi: Nơi em làm việc có 1 cô xin nghỉ việc, thời gian cô đóng BHXH từ tháng 10/1988 đến tháng 11/2013. Nhưng BHXH chốt sổ cho cô tới tháng 12/2008 thôi. tờ rời thì tới tháng 11/2013. cô được hưởng trợ cấp thôi việc không? nếu được thì cách tính sao? (Liên - Hà Đông)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Dương Thị Hải Yến - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất, điều kiện để hưởng trợ cấp thôi việc

Theo quy định của Bộ luật lao động “Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương (Khoản 1, Điều 48 BLLĐ )

Như vậy, đối chiếu với thông tin của bạn nếu việc xin nghỉ của cô ấy chấm dứt theo các quy định sau thì cô ấy được hưởng trợ cấp thôi việc: Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192 của Bộ luật này. Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động. Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động. Người lao động bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án. Người lao động chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết. Người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động. Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật này. Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật này; người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhật, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã.
Thứ hai: Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc
Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc.
Thứ ba: Về Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc
Theo thông tin của bạn thì xác định được tổng thời gian làm việc thực tế của cô ấy là 25 năm từ năm 1988 đến năm 2013.
Trường hợp thứ nhất: Nếu trong thời gian trên cô ấy đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp, hoặc đã được người sử dụng lao động chi trả một phần trợ cấp thôi việc thì sau khi nghỉ việc thời gian để tính trợ cấp thôi việc sẽ là: Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc = Tổng thời gian làm việc thực tế - (thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp + thời gian người sử dụng lao động đã chi trả trợ cấp thôi việc)
Trường hợp thứ hai: Nếu trong thời gian trên (25 năm) cô ấy không tham gia bảo hiểm thất nghiệp, cũng như người sử dụng lao động không chi trả bất cứ một khoản trợ cấp thất nghiệp nào cho cô ấy, thì sau khi nghỉ làm thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc cho cô ấy là 25 năm, bằng với tổng thời gian làm việc thực tế.
Như vậy, số tiền trợ cấp thôi việc được nhận = Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc X nữa tháng tiền lương (bình quân theo hợp đồng lao động của 6 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc)
Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm