-->

Tư vấn giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc?

Tranh chấp thừa kế giữa các bên đương sự được giải quyết tại tòa án nhân dân có thẩm quyền.

Hỏi: Thưa luật sư, em có trường hợp phân chia tài sản như sau, mong công ty giải đáp giúp em: Ông A là 1 doanh nhân, có vợ và 2 cô con gái. Một cô 20 tuổi và một cô 15 tuổi. Năm 47 tuổi ông A mắc bệnh ung thư nên đã làm 1 bản di chúc để lại quyền sử dụng đất và ngôi nhà trị giá 3 tỉ đồng cho vợ và 2 con, toàn bộ các tài sản khác có giá trị khoảng 6 tỉ đồng để lại cho người em trai ruột của ông.Bản di chúc do ông A tự tay viết và đã được ủy ban phường nơi ông A cư trú chứng thực. Khi ông A mất, di chúc được công bố nhưng vợ ông A không chấp nhận nội dung bản di chúc đó. Bà này đã kiện ra tòa án và yêu cầu phân chia thừa kế,tòa án phải phân xử trường hợp này như thế nào? (Ngọc My - Hà Nội)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Tòa án sẽ giải quyết trường hợp này dựa trên những quy định pháp luật về thừa kế mà cụ thể là thừa kế theo di chúc vì ông A có để lại di chúc và những chứng cứ mà các bên đưa ra để giải quyết vụ việc.

Một bản di chúc có hiệu lực, được coi là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ khi đáp ứng đủ các quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 như sau:

"1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;

b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực".

Hình thức của di chúc hợp pháp được quy định tại các Điều 649, 650, 651 Bộ Luật dân sự năm 2005. Trong đó có hình thức di chúc bằng văn bản có chứng thực được coi là hợp pháp. Như vậy, bản di chức của ông A là hoàn toàn hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Pháp luật tôn trọng ý chí của cá nhân khi để lại di chúc chính vì vậy tại Điều 648 Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định quyền của ngươi lập di chức:

"Người lập di chúc có các quyền sau đây:

1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;

2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;

3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;

4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;

5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản".

Như vậy, người lập di chúc về cơ bản có toàn quyền quyết định đối với việc ai là người thừa kế, được thừa kế bao nhiêu phần di sản trừ trường hợp quy đinh tại Điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005:

"Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:

1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động".

Theođó nếuông A vẫn có cha, mẹ thì họ vẫnđược hưởng di sản thừa kế củaông A. như vậy nếu vợôngấyđưađơn ra Tòa khởi kiện thì tòaán vẫn sẽ phân chia theo di chúc nếuông A không còn cha mẹ, còn nếuông A còn cha, mẹ thì tòaán sẽ phân chia di sản cho cả họ nữa theo tỷ lệđược quyđịnhở trên.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật hành chính mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.