Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất trên lối đi của hộ khác

Điều 167 Luật đất đai 2013 quy định về Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất.

Hỏi: Năm 2001, gia đình em được gia đình ông B cho một miếng đất giáp ranh với đất của ông C (mảnh đất có bìa đỏ của ông B) để làm đường đi ra với đường cộng đồng. Trong năm đấy gia đình em đã làm đường trên mảnh đất giáp ranh với gia đình ông C. Đến năm 2007 thì gia đình ông B lại bán cho ông C một miếng đất bao gồm cả phần đường của gia đình em. Trong giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất của ông C và bản đồ địa chính của UBND xã tại thời điểm bây giờ có thể hiện rõ mảnh đất của ông C riêng và ngõ gia đình em riêng nhưng ông C lại làm đơn khiếu nại đòi quyền sử dụng đất trên con đường của gia đình em. Xin luật sư tư vấn giúp em gia đình ông C làm vậy là sai hay đúng?(Bình Dương - Hưng Yên)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Lê Thị Hồng Sơn - Tổ tư vấn pháp luật Bất động sản của Công ty Luật Everest - trả lời:

Điều 459 Bộ luật dân sự 2005 quy định:

“1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật.

2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản”.

Điều 167 Luật đất đai 2013 quy định về Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất như sau:

“3. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:

a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này”.

Trong trường hợp việc tặng cho lại miếng đất đó được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực thì gia đình bạn hoàn toàn có quyền sử dụng miếng đất đó. Ngược lại, nếu như việc tặng cho đó chỉ được giao kết bằng lời nói thì đương nhiên việc tặng cho đất này không có hiệu lực pháp lý. Do đó, ông C hoàn toàn có quyền đòi lại miếng đất này.

Tuy nhiên, đây là miếng đất mà gia đình bạn dùng để làm đường đi ra với đường cộng đồng. Bộ luật dân sự 2015 có quy định quyền về lối đi qua bất động sản liền kề:

Điều 254 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về Quyền về lối đi qua như sau:

“1.Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.

Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.

Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Nếu như mảnh đất nhà bạn vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra thì gia đình bạn có quyền yêu cầu ông C hoặc chủ sở hữu các bất động sản liền kề mở cho mình một lối đi ra đường công cộng. Người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó.

Như vậy, Việc đòi lại quyền sử dụng đất của ông C hoàn toàn có căn cứ pháp luật nếu như việc được tặng cho đất giữa ông B và gia đình bạn không được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.