Di chúc hợp pháp là di chúc được lập theo quy định của pháp luật.
Hỏi: Bố chồng tôi được phân ba căn hộ nhưng ông đã mất và mẹ tôi làm sổ đỏ đứng tên ba căn hộ, sau đấy mẹ tôi bán đi một căn hộ và cho hai cô con gái mỗi người mười triệu ( bố mẹ tôi có ba người con) tại thời điểm 1994 còn chồng tôi ko có gì ( lúc đó mẹ tôi ghi vào sổ lịch và tôi ko còn quyển đó nữa). Vợ chồng tôi ở cùng mẹ và đóng góp sửa nhà cửa mất hai cây vàng và nhiều lần sửa khác nữa mỗi lần một hai triệu, đến giờ nhà tôi xây dựng lại thành nhà tái định cư và mẹ chồng tôi cho chồng tôi một căn hộ nhỏ còn mẹ tôi một căn hộ lớn và thêm một kiot nữa. Bây giờ mẹ tôi cho hai con gái một kiot và nhà mẹ tôi thì chia làm ba phần, nhưng chồng tôi ko đồng ý vì trước kia mẹ tôi đã chia cho hai cô con gái và lại cho kiot nữa, mẹ tôi muốn làm di chúc chia làm ba phần của nhà mẹ tôi và muốn ba người con cùng ký vào để bản di chúc hợp pháp khi mọi người con đều đồng thuận. Nhưng chồng tôi ko ký và chỉ muốn mẹ tôi chia ra làm bốn phần vì chồng tôi nói là để một phần cho cháu trai sau này có trách nhiệm thờ ông bà. Vậy chồng tôi ko ký thì văn bản di chúc có hợp lý ko? Và nếu mẹ tôi cho hai cô con gái và chồng tôi có quyền đòi hỏi ko? Hiện giò vợ chồng tôi đang sống cùng mẹ tôi nếu mẹ tôi có bán tôi không đồng ý cho bán căn hộ này có được không? Vì chồng tôi muốn để làm nơi thờ cúng bố mẹ sau này. (Thu Hà - Ninh Bình)
Trường hợp thứ nhất, bố bạn mất không để lại di chúc và trước đó không có thỏa thuận cho mẹ bạn toàn bộ giá trị ba căn hộ làm tài sản riêng.
Trường hợp bố bạn mất không để lại di chúc thì tài sản của bố bạn (bao gồm một nửa giá trị ba căn hộ) sẽ được chia thừa kế theo quy định pháp luật. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết (Điều 676 Bộ luật dân sự) sẽ được hưởng mỗi người một phần di sản thừa kế bằng nhau. Nếu tại thời điểm bố bạn mất mà ông bà nội của chồng bạn còn sống thì tài sản thuộc quyền sở hữu của bố chồng bạn sẽ chia thành 6 phần (bố, mẹ, vợ và 3 con), còn nếu tại thời điểm đó ông, bà mất thì di sản chia 4 phần. Ở đây, công ty chỉ trình bày trường hợp bố bạn chỉ có 4 người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Với trường hợp này, mẹ bạn sẽ có quyền sở hữu với ½ giá trị ba căn hộ cộng với giá trị ¼ nửa giá trị ba căn hộ của bố bạn (tổng 5/8 giá trị ba căn hộ). Ba người con mỗi người con sẽ được hưởng ¼ của giá trị căn hộ thuộc sở hữu của bố bạn. Như vậy, mẹ bạn không có quyền định đoạt toàn bộ giá trị ba căn hộ mà chỉ định đoạt được 5/8 giá trị ba căn hộ.
Tuy nhiên, từ thông tin bạn cung cấp có thể thấy, bố bạn mất trước 1994, mà theo quy định tại 2.2 Mục 1 Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 1/7/1996 là 10 năm. Như vậy, đến thời điểm hiện tại thì thời hiệu để khởi kiện chia di sản thừa kế của bố bạn đã hết nên không thể khởi kiện ra Tòa yêu cầu chia thừa kế.
Nhưng cũng tại 2.4 Mục 1 Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP quy định về trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế “nếu trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế”. Như vậy, nếu mẹ chồng bạn và các con chưa có thỏa thuận về phân chia di sản thừa kế, không có tranh chấp về thừa kế thì sẽ không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Các đồng thừa kế có thể tự thỏa thuận để phân chia tài sản chung của các thừa kế. Còn nếu có tranh chấp thì sẽ rất khó giải quyết để đảm bảo quyền lợi của các con khi thời hiệu khởi kiện đã hết.
Trường hợp thứ hai, bố bạn mất không có di chúc nhưng trước đó đã có thỏa thuận cho mẹ bạn ba căn hộ làm tài sản riêng và để mẹ bạn đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu.
Khi bố bạn đã để lại toàn bộ giá trị ba căn hộ cho mẹ bạn thì mẹ bạn lúc này chính là chủ sở hữu duy nhất của ba căn hộ và mẹ chồng bạn có đủ ba quyền: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt với ba căn hộ trên. Việc mẹ chồng bạn bán hay tặng, cho cho ai hoàn toàn là quyền của mẹ bạn. Mẹ bạn hoàn toàn có quyền lập di chúc để tự định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình mà không cần phải có sự đồng ý của các con. Điều 652 Bộ luật dân sự quy định về di chúc hợp pháp như sau:
"1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực".
Như đã phân tích ở phía trên, nếu ba căn hộ trên thuộc sở hữu của mẹ chồng bạn thì mẹ chồng bạn có toàn quyền quyết định đối với số tài sản đó nhưng không trái quy định của pháp luật. Chồng bạn không có quyền can thiệp đến quyết định bán hoặc tặng, cho tài sản của mẹ chồng bạn.
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật hành chính mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận