Tặng, cho bất động sản phải được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng Nhà nước hoặc có chứng thực của UBND cấp có thẩm quyền và phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Vấn đề anh (chị) hỏi là “vấn đề nóng” trong không ít gia đình hiện nay, thực tế, chúng tôi nhận được khá nhiều câu hỏi với nội dung tương tự. Thế nhưng, hầu hết câu hỏi đều chưa đủ thông tin, đặc biệt bạn đọc không nói rõ, người được tặng, cho (con gái, con rể) đã xác lập quyền sử dụng đất theo thủ tục luật định hay chưa, nên chúng tôi không thể trả lời chính xác từng trường hợp. Tuy nhiên, để bạn đọc nói chung, ông Nguyễn Trọng Đức nói riêng tham khảo, chúng tôi dẫn chiếu, phân tích một số quy định của pháp luật về vấn đề này.
Theo quy định tại Điều 106 Luật Đất đai năm 2003, bố mẹ vợ của ông Đức có quyền cho vợ chồng bạn 200m2 đất khi có đủ các điều kiện sau: đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ); đất không có tranh chấp; quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; trong thời hạn sử dụng đất. Cùng với các điều kiện trên, việc tặng, cho phải bảo đảm đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự, quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS) và các điều kiện đặc thù đối với giao dịch về tặng, cho quyền sử dụng đất theo quy định của BLDS. Điều 467 BLDS quy định: “Tặng, cho bất động sản phải được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng Nhà nước hoặc có chứng thực của UBND cấp có thẩm quyền và phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nếu theo quy định của pháp luật, bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu. Hợp đồng tặng, cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký...”.
Từ quy định trên cho thấy, nếu bố mẹ vợ đã “cho” vợ chồng ông 200m2 đất, việc tặng, cho được lập thành văn bản, đã được công chứng hoặc chứng thực của UBND cấp có thẩm quyền và vợ chồng bạn đã đăng ký chứng nhận quyền sử dụng đất thì vợ chồng ông có toàn quyền quản lý, sử dụng và định đoạt đối với quyền sử dụng diện tích đất nêu trên (Điều 165 BLDS, Điều 106 Luật Đất đai năm 2003). Anh chị em trong gia đình ngăn cản vợ chồng bạn chuyển nhượng nhà và đất ở, là vi phạm nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền sở hữu, các quyền khác đối với tài sản (Điều 169 BLDS).
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận