-->

Thời hạn kết thúc của hợp đồng thử việc

Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động.

Hỏi: Em ký hợp đồng thử việc với công ty từ ngày 04/11/2015 đến 05/01/2016. Đến ngày 05/01/2016 do không thỏa thuận được về hợp đồng chính thức nên em đã tự nộp đơn xin nghỉ việc. Sau đó TGĐ công ty có liên hệ với em và ngày 20/01/2015 em đi làm lại. Tuy nhiên công ty không đề cập gì đến hợp đồng chính thức. Tới ngày 19/02/2016 thì em nhận được thông tin mức lương của em vẫn là mức lương thử việc. Do nhận thấy không có ai đứng ra chịu trách nhiệm cho việc giải quyết hợp đồng với em nên ngày 26/02/2016 em đã viết đơn xin nghỉ. Vậy em muốn hỏi sau khi vào làm lại thì có được xem là đã trở thành hợp đồng chính thức hay sẽ là thử việc lại từ đầu? (Phú Vinh - Đà Lạt)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Văn Lâm - Tổ tư vấn pháp luật Lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Bộ luật Lao động năm 2012 quy định:

Điều 29. Kết thúc thời gian thử việc:

1. Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động. 2. Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận".

Nghị định 05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động cũng quy định: Điều 7: Thông báo kết quả về việc làm thử

1. Trong thời hạn 03 ngày trước khi kết thúc thời gian thử việc đối với người lao động làm công việc có thời gian thử việc quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 27 của Bộ luật Lao, người sử dụng lao động phải thông báo cho người lao động kết quả công việc người lao động đã làm thử; trường hợp công việc làm thử đạt yêu cầu thì khi kết thúc thời gian thử việc, người sử dụng lao động phải giao kết ngay hợp đồng lao động với người lao động. 2. Khi kết thúc thời gian thử việc đối với người lao động làm công việc có thời gian thử việc quy định tại Khoản 3 Điều 27 của Bộ luật Lao động, người sử dụng lao động phải thông báo cho người lao động kết quả công việc người lao động đã làm thử; trường hợp công việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết ngay hợp đồng lao động với người lao động”.

Như vậy, về phía công ty của bạn thì trước khi bạn kết thúc thời gian thử việc ít nhất 03 ngày phải thông báo đến bạn về kết quả thử việc của bạn. Nếu như kết quả thử việc đạt yêu cầu thì phía công ty bạn phải giao kết ngay hợp đồng với bạn và đó là hợp đồng làm việc chính thức. Tuy nhiên, đại diện bên công ty thì lại không hề có ý kiến gì là sai. Sau khi bạn nghỉ việc thì được phía công ty gọi đi làm. Quy định “Thời gian thử việc căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc nhưng chỉ được thử việc 01 lần đối với một công việc” (Điều 27 Bộ luật lao động 2012) nên khi bạn quay trở lại làm đó không còn là thử việc nữa mà là làm việc chính thức.

Điều 18 Bộ luật lao động 2012 về Nghĩa vụ giao kết hợp đồng quy định rằng: “Trước khi nhận người lao động vào làm việc, người sử dụng lao động và người lao động phải trực tiếp giao kết hợp đồng lao động”.

Như vậy, khi vào làm việc chính thức tại công ty giữa bạn và đại diện bên công ty phải giao kết hợp đồng lao động trong đó đề cập về các nội dung quan trọng như quyền, nghĩa vụ giữa các bên cũng như trách nhiệm khi xảy ra thiệt hại,…Việc công ty không đề cập gì đến hợp đồng làm việc chính thức với bạn là sai phạm bên phía công ty và trực tiếp nhất là đại diện bộ phận tuyển dụng nhân viên của công ty là trưởng phòng nhân sự. Hiện tại, nếu tiếp tục làm việc, bạn có quyền yêu cầu công ty ký hợp đồng lao động. Nếu côn ty không đồng ý, tôi khuyên bạn nên cân nhắc về việc có tiếp tục làm việc ở một nơi không đảm bảo quyền lợi chính đáng cho mình.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.