-->

Tặng cho nhà đất nhưng không lập văn bản, có quyền đòi lại không?

Chuyển quyền sử dụng đất là việc chuyển giao quyền sử dụng đất từ người này sang người khác thông qua các hình thức chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất và góp vốn bằng quyền sử dụng đất

Hỏi: Năm 2010, mẹ tôi cho tôi một mảnh đất nhưng không lập văn bản, chỉ nói miệng. Sau đó, tôi đã xây nhà ở. Do tác động của anh trai, mẹ tôi thay đổi ý định, cho mảnh đất cho cho anh trai tôi. Anh trai tôi hiện tại yêu cầu tôi phải trả lại đất. Đề nghị luật sư tư vấn, tôi có quyền sử dụng trên nhà, đất đó nữa không? (Hoàng Chiến Thắng - Nam Định)

c

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Vũ Thị Hường - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Luật đất đai năm 2013 quy định:

“Chuyển quyền sử dụng đất là việc chuyển giao quyền sử dụng đất từ người này sang người khác thông qua các hình thức chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất và góp vốn bằng quyền sử dụng đất.” (khoản 10 Điều 3 LĐĐ).

Bộ luật dân sự năm 2005:

"Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu." (Điều 134).

“Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập (khoản 1 Điều 136).

“1. Việc chuyển quyền sử dụng đất được thực hiện thông qua hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này. 2. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật” (khoản 1, khoản 2 Điều 689).

“Bên được tặng cho quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ sau đây: 1. Đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai;” (khoản 1 Điều 725).

Theo thông tin anh cung cấp, hợp đồng tặng cho giữa mẹ anh và anh giao kết từ năm 2010, nhưng các bên chưa tuân thủ quy định về hình thức của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất (phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực). Đồng thời, anh (bên được tặng cho quyền sử dụng đất) chưa thực hiện nghĩa vụ đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Tuy nhiên, tính tới thời điểm hiện tại, hợp đồng này đã được các bên xác lập trên 02 năm. Trong khi thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu về hình thức chỉ là 02 năm, kể từ ngày hợp đồng dân sự được xác lập. Do đó giả thiết, giữa hai bên có tranh chấp và anh chứng minh được giữa anh và mẹ anh có giao kết hợp đồng, thì hợp đồng này vẫn được pháp luật công nhận, nghĩa là anh vẫn tiếp tục có quyền sử dụng mảnh đất nêu trên.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật đất đai mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.