Người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động giúp việc gia đình theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật Lao động.
Khách hàng Lưu Tuyền (Hà Nội) đề nghị luật sư tư vấn về trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động làm giúp việc gia đình, khi các bên chấm dứt hợp đồng lao động.
Tóm tắt yêu cầu của khách hàng: Tôi có sử dụng lao động giúp việc khi vợ tôi sinh con. Hiện nay cháu đã lớn (20 tháng tuổi). Tôi đã đề nghị chấm dứt hợp đồng, cô ấy đã đồng ý, nhưng đề nghị tôi hỗ trợ một khoản trợ cấp. Nhờ luật sư giải đáp, theo luật gia đình tôi có trách nhiệm gì khi chấm dứt hợp đồng lao động với người giúp việc hay không?
Luật gia Nguyễn Thị Bích Phượng - Phòng Tư vấn doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Liên quan tới câu hỏi của anh (chị), chúng tôi trích dẫn một số quy định của pháp luật lao động, như sau:
Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về trợ cấp thôi việc: "1- Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương. 2- Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc. 3- Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc" (Điều 48).
Nghị định số 27/2014/NĐ-CP ngày 07/04/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của bộ luật lao động về lao động là người giúp việc gia đình quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động:
“1- Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại Điều 10 Nghị định này, người sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên trong hợp đồng lao động. Trường hợp đặc biệt do hai bên thỏa thuận nhưng không quá 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động. 2- Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4, Khoản 5 Điều 10 và đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 11, Khoản 1, Điểm b Khoản 2, Điểm c Khoản 3 Điều 12 Nghị định này, người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật Lao động” (Điều 13).
Thông tư số 19/ /2014/TT-BLĐTBXH Thông tư hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 27/2014/NĐ-CP ngày 07/04/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động là người giúp việc gia đình quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động như sau:
“1- Các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên trong hợp đồng lao động tại khoản 1 Điều 13 Nghị định số 27/1014/NĐ-CP quy định như sau: (a) Tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của người lao động tính đến thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động; (b) Tiền lương cho những ngày nghỉ hàng năm mà người lao động chưa nghỉ (nếu có); (c) Chi phí ăn, chỗ ở của người lao động (nếu có); (d) Tiền hỗ trợ học văn hóa, học nghề (nếu có); (đ) Tiền tàu xe đi đường khi người lao động về nơi cư trú, trừ trường hợp người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; (e) Các khoản đã thỏa thuận khác trong hợp đồng lao động (nếu có).
2- Trợ cấp thôi việc cho người lao động tại khoản 2 Điều 13 Nghị định số 27/1014/NĐ-CP quy định như sau: (a)
Người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho
người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm
làm việc được trợ cấp ½ tháng tiền lương; (b) Thời gian làm việc
để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc
thực tế cho người sử dụng lao động, bao gồm: thời gian thử việc, thời
gian làm việc tại hộ gia đình; thời gian được người sử dụng lao động bố
trí cho người lao động học văn hóa, học nghề; thời gian nghỉ việc do ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động; thời gian nghỉ hàng tuần, nghỉ việc
hưởng nguyên lương theo Điều 111, Điều 112, Điều 115 và Khoản 1 Điều 116
của Bộ luật lao động; thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi
của người lao động; thời gian nghỉ vì bị tạm đình chỉ công việc, bị tạm
giữ, tạm giam nhưng được trở lại làm việc do được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền kết luận không phạm tội; thời gian nghỉ việc không hưởng
lương nếu được người sử dụng lao động đồng ý; (c) Trường hợp người
lao động đã làm việc liên tục cho người sử dụng lao động theo nhiều hợp
đồng lao động trước đó mà chưa được người sử dụng lao động tính trả trợ
cấp thôi việc thì thời gian làm việc thực tế cho người sử dụng lao động
là tổng thời gian (cộng dồn) mà người lao động đã làm việc cho người sử
dụng lao động theo các hợp đồng lao động; (d) Thời gian làm việc
để tính trợ cấp thôi việc được tính theo năm, trường hợp có tháng lẻ thì
từ đủ 01 tháng đến dưới 06 tháng được tính bằng ½ năm, từ đủ 06 tháng
trở lên được tính bằng 01 năm làm việc; (đ) Tiền lương để tính trợ
cấp thôi việc là mức tiền lương bình quân ghi trong hợp đồng lao động
của 06 tháng liền kề trước khi chấm dứt hợp đồng lao động; (e)
Người lao động có thời gian làm việc trước ngày 01 tháng 5 năm 2013 thì
thời gian từ khi bắt đầu làm việc đến trước ngày 01 tháng 5 năm 2013
được tính trả trợ cấp thôi việc theo thỏa thuận ghi trong hợp đồng lao
động đã ký trước đó (nếu có)” (Điều 10).
Như vậy, anh (chị) có trách nhiệm chi trả các phụ cấp (nêu trên) cho người lao động giúp việc gia đình khi chấm dứt hợp đồng lao động với họ.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 198, hoặc E-mail: [email protected], [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận