Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền
Hỏi: Năm 1958, ông X lấy bà 1, sinh ra anh A. Anh A được 3 tuổi thì bỏ nhau. - Năm 1965, ông X lấy bà 2, sinh ra anh B. Anh B được 5 tuổi thì ông X và bà 2 làm thủ tục ly hôn.- Năm 1984, ông X lấy bà 3, sinh ra anh C và chị D.Năm 1998, ông X đột ngột mất, ko để lại di chúc.Tài sản ông X để lại là 1 thửa đất 519,3m2 Hiện nay, bà 3 và gia đinh anh C (con bà 3) đang sinh sống trên mảnh đất này. Bà 3 đã cho anh C đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.Ngày 9/11/2001, họ tộc bên nội tổ chức họp gia đình và có chia cho bà 3, anh A, anh B, anh C mỗi người 1/4 thửa đất. Biên bản họp có mọi người ký tên đầy đủ.Ngày 4/5/2010, bà 3 lại gọi các con trong nhà họp gia đình gồm bà 3, anh A, anh B, anh C, thống nhất chia cho mỗi người 4m ngang mặt đường chạy vào. Biên bản có chữ ký đầy đủ của 4 người và có dấu xác nhận của UBND xã. Nhưng đến nay, gia đình bà X và anh C vẫn đang sinh sống trên mảnh đất này mà ko tiến hành chia cho anh A và anh B. Vậy làm thế nào để anh A và anh B được chia đất? (Nguyễn Dung - Ninh Bình)
Luật gia Phạm Thị Mai Phương – Tổ tư vấn pháp luật thừa kế – Công ty Luật TNHH Everest – trả lời:
Căn cứ Mục 2.4 Khoản 2 Phần I Nghị quyếtthì:
“a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:
a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảothuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.”
Căn cứ Điều 203 quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai thì:
- Trường hợp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong những giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013 và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất (nhà ở, công trình xây dựng khác…) thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
-Trường hợp không có một trong giấy tờ trên thì có quyền lựa chọn Ủy ban nhân dân hoặc Tòa án giải quyết.
Theo đó, bạn có thể yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết hoặc khởi kiện tại Tòa án,nơi cư trú của bà 3 và C.
Trường hợp khởi kiệntại Tòa án ngoài thực hiện theo đúng thủtục tố tụng bạn nênkèm theo Văn bản thỏa thuận phân chia di sản để lám căn cứ.
Sau khi có bản án/quyết định của Tòa án hoặc quyết định giải quyết của UBND thì các thừa kếcó thể tiến hành đăng ký quyền sử dụng đất đối với phần mình được nhận.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận