Quy định về tiền lương trong thời gian thử việc

Nếu bạn chấm dứt hợp mà không báo trước 30 ngày theo quy định của pháp luật thì nghĩa vụ của người sử dụng lao động và người lao động được giải quyết như việc ký hợp đồng lao động chính thức.

Hỏi: Đề nghị Luật sư tư vấn, tôi ký hợp đồng thử việc 2 tháng từ ngày 20/04/2016 đến ngày 19/06/2016 với một công ty nước ngoài. Đến ngày 27/06, tôi mới nhận được yêu cầu ký hợp đồng 1 năm của công ty. Tuy nhiên, tôi quyết định nghỉ việc vào ngày 30/06. Công ty đưa ra 2 phương án trả lương từ ngày 20/06-30/06 đối với tôi như sau:Thứ nhất: Cho phép nghỉ đúng 30/06 và không được thanh toán lương. Thứ hai: Tiếp tục ký hợp đồng lao động 1 năm và tiếp tục làm sau 30 ngày mới được nghỉ mới được trả lương.Tôi không ký tiếp hợp đồng nhưng không được trả lương. Sau nhiều lần tranh luận, công ty quyết định trả 85% lương từ ngày20-30/07 sau 15 ngày, tức vào ngày 15/07. Tuy nhiên, tới ngày 28/07, công ty vẫn không trả lương,công ty làm như vậy có đúng pháp luật không? Nếu họ không trả lương thì tôi có cơ sở nào để khởi kiện? (Quốc Đạt)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Văn Lâm - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật Everest - trả lời:

Điều 7 Nghị định 05/2015/NĐ-CP về thông báo kết quả về việc làm thử quy định như sau:

"1.Trong thời hạn 03 ngày trước khi kết thúc thời gian thử việc đối với người lao động làm công việc có thời gian thử việc quy định tại Khoản 1 và 2 Điều 27 của Bộ luật Lao động, người sử dụng lao động phải thông báo cho người lao động kết quả công việc người lao động đã làm thử; trường hợp công việc làm thử đạt yêu cầu thì khi kết thúc thời gian thử việc, người sử dụng lao động phải giao kết ngay hợp đồng lao động với người lao động.

2.Khi kết thúc thời gian thử việc đối với người lao động làm công việc có thời gian thử việc quy định tại Khoản 3 Điều 27 của Bộ luật Lao động, người sử dụng lao động phải thông báo cho người lao động kết quả công việc người lao động đã làm thử; trường hợp công việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết ngay hợp đồng lao động với người lao động".

Theo quy định trên, trường hợp hết thời gian thử việc màcông ty không ký hợp đồng lao động với bạn, thì bạn đương nhiên được làm việc chính thức. Tuy nhiên, pháp luật không quy định việc đương nhiên làm việc chính thức thuộc loại hợp đồng lao động nào. Vì vậy, cần xem lại thỏa thuận hợp đồng thử việc để xác định loại hợp đồng nào sẽ được ký kết sau khi kết thúc thời gian thử việc, từ đó xác định nghĩa vụ của các bên.

Điều 28 Bộ luật Lao động về tiền lương trong thời gian thử việc quy định như sau:

"Tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc do hai bên thoả thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó"

Như vậy, sau thời gian thử việc, công ty phải trả 100% mức lương chính thức.

Điều 43 Bộ Luật Lao động về nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

"1.Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

2.Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật nào".

Như vậy, nếu bạn chấm dứt hợp mà không báo trước 30 ngày theo quy định của pháp luật thì nghĩa vụ của người sử dụng lao động và người lao động được giải quyết như việc ký hợp đồng lao động chính thức.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.