Phải có sự tham gia của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở
Hỏi: Tôi ký HĐLĐ với Công ty A từ 15/12/2013 thời hạn 12 tháng với mức lương 2.889.000, sau đó ký tiếp HDLĐ 12 tháng tới 15/12/2015 với mức lương 3.500.000, và ký HDLD không xác định thời hạn từ ngày 15/12/2016 với mức lương 4.000.000. Ngày 17/5/2016, Công ty họp làm việc xem xét kỷ luật tôi (không có sự tham dự của Công đoàn vì Công ty chưa có Công đoàn) và ban hành QĐ kỷ luật với hình thức cảnh cáo. Đồng thời có điều ghi là cho tôi 30 ngày nếu còn tái phạm sẽ đơn phương chấm dứt HĐLĐ với tôi và không bồi thường bất cứ chi phí nào. Tới ngày 13/6/2016, Công ty ra QĐ chấm dứt HĐLĐvới tôi kể từ ngày 17/6/2016. Lý do là vi phạm nghĩa vụ của ngườilao động ghi tại HĐLĐ. Trong thời gian từ 17/5/2016 - 13/6/2016 Công ty không có bất kỳ cuộc họp xem xét kỷ luật nào với tôi, hay văn bản khác liên quan. Như vậy có đúng không và quy định thế nào, nếu tôi kiện thì được quyền lợi gì, và thủ tục thế nào? ( Tạ Văn Dũng - Thái Bình)Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Phạm Thị Mai Phương – Tổ tư vấn pháp luật Lao động – Công ty Luật TNHH Everest – trả lời:
Theo điểm b khoản 1 Điều 123 Bộ luật lao động 2012 quy định Nguyên tắc, trình tự xử lý kỷ luật lao động:
“b) Phải có sự tham gia của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở”.
Tuy nhiên, theo thông tin bạn đưa ra thì trong quá trình xử lý kỉ luật lao động đối với bạn thì không có sự tham gia của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở (Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở, theo khoản 4 Điều 3 Bộ luật lao động 2012)do đó quyết định xử lý kỉ luật của Công ty đối với bạn là vi phạm pháp luật.
Theo Điều 38 Bộ luật lao động 2012 quy định Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động:
“1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;
b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;
c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này.
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:
a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;
c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng”.
Theo khoản 1 Điều 12 Nghị định số 05/2015/N Đ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thì hành một số nội dung của Bộ luật lao động quy định vềĐơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động:
“1. Người sử dụng lao động phải quy định cụ thể tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của doanh nghiệp, làm cơ sở đánh giá người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ do người sử dụng lao động ban hành sau khi có ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở”.
Thông tin bạn đưa ra là tới ngày 13/6/2016, Công ty ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với tôi kể từ ngày 17/6/2016. Như vậy, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì công ty bạn đã vi phạm về thời hạn báo trước.
Đồng thời, lý do mà công ty bạn đưa ra khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bạn là do vi phạm nghĩa vụ của ngườilao động ghi tại HDLĐ. Sự vi phạm ở đây có phải là do bạn thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động hay không? Và nếu phải thì quy chế đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ do người sử dụng lao động ban hành thì đã có ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở hay chưa?
Trong trường hợp công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là do bạn thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động, đồng thời quy chế đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ do người sử dụng lao động ban hành sau khi có ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở thì lý do mà công ty đưa ra trong quyết định là đúng theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không phải do bạn thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động, hoặc do bạn thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động nhưng quy chế đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ do người sử dụng lao động ban hành mà không có ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở thì lý do mà công ty đưa ra trong quyết định là không đúng quy định của pháp luật.
Để bảo vệ quyền lợi của mình thì bạn có thể gửi đơn khiếu nại tới công của bạn yêu cầu hủy bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước khi hết thời hạn báo trước. Nếu đã hết thời hạn báo trước hoặc không được công ty chấp thuận yêu cầu thì bạn có thể gửi đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tới Hòa giải viên lao động hoặc có thể gửi đơn khởi kiện tới Toà án nhân dân cấp huyện nơi công ty có trụ sở để giải quyết.
Theo Điều 42 Bộ luật lao động 2012 quy định Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:
“1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.
3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước”.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật hành chính mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận