Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết
Hỏi: Em xin hỏi về việc thừa kế tài sản đất đai của ông Nội để lại cho cha em cách nay 15 năm. Nội có 3 người con gái và 4 người con trai gồm cha em là út. Vào thời điểm Nội lập di chúc, các cô em (tức 3 người con gái) đã lập gia đình nơi khác nên đã không kí tên vào bản di chúc, còn lại 3 người con trai đều kí tên vào di chúc của Nội lập ra là sẽ để đất lại cho cha em đứng tên. Đó là 1 tờ di chúc bằng giấy, đã được ủy ban thị trấn chứng nhận, sau khi Nội mất, tất cả giấy tờ đều do cha em đứng tên cả. Nhưng sau này, 2 người cô của em về xây nhà trên đất của nội để lại cho cha, cha em vẫn cho xây nhà ở. Năm trước cha có cắt đất của mình cho 2 Bác của em. Giờ đây 2 cô thấy vậy nên đòi cha em cắt đất cho họ, và kiện cha ra tòa vì không chịu cắt đất chia cho 2 cô. Vậy giờ cha em có phải chia khôngthưa luật sư? Và quy định pháp luật thế nào? (Thu Hạnh - Bình Định)
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Trước hết, tranh chấp giữa cha bạn và cô của bạn là tranh chấp thừa kế về quyền sử dụng đất. Để biết cha bạn có phải chia đất không, cần xét xem cô bạn có căn cứ xác lập quyền sử dụng đất của cô không?
Dựa theo thông tin bạn đưa ra, cha bạn thừa kế mảnh đất của ông nội 15 năm trước, tức thời điểm mở thừa kế là năm 2001. Nội dung di chúc của ông nội bạn là để lại đất cho cha bạn đứng tên, tức là để lại di sản cho một người thừa kế là cha của bạn. Di chúc của ông bạn bằng văn bản, có chứng thực của Ủy ban nhân dân thị trấn. Do đó, khả năng cao là di chúc có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp này, căn cứ theo Bộ luật Dân sự 2005 Điều 688 Khoản 3 quy định về căn cứ xác lập quyền sử dụng đất: “Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác cũng được xác lập do được người khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”. Căn cứ này cũng được chính thức ghi nhận trong Luật Đất đai hiện hành.
Theo đó, Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất từ thừa kế qua việc đăng ký biến động về đất đai quy định tại Luật Đất đai 2013 Điều 95 Khoản 4 Điểm a: “Đăng ký biến động được thực hiện đối với trường hợp đã được cấp Giấy chứng nhận hoặc đã đăng ký mà có thay đổi sau đây: a) Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất”.
Việc cha bạn có phải chia thửa đất hay không phụ thuộc vào những căn cứ mà cô của bạn đưa ra có đủ cơ sở chứng minh 2 cô là chủ sử dụng hợp pháp thửa đất mà họ kiện đòi hay không và yêu cầu của họ có phù hợp với pháp luật về kiện đòi tài sản hay không. Nếu các tài liệu, chứng cứ mà họ đưa ra không đủ giá trị chứng minh thì yêu cầu chia đất sẽ không được tòa chấp nhận. Tuy nhiên, cần lưu ý quy định của Bộ luật Dân sự 2005 Điều 646, “di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết” và Điều 647 quyền của người lập di chúc là:
- Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
- Dành một phần tài sản trong khổi di sản để di tặng, thờ cúng;
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản;
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện nay cha bạn đứng tên, nguồn gốc do được thừa kế hợp pháp. Di chúc của ông nội chỉ nêu tên cha bạn là người thừa kế nên mặc dù di chúc không có chữ ký của 2 cô bạn, cha bạn vẫn có căn cứ xác lập quyền sử dụng đất và 2 cô của bạn không có căn cứ này theo di chúc ông nội để lại.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận