Lịch sử lập hiến Việt Nam qua các thời kỳ

Hiến pháp là cơ sở pháp lý để xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất; đồng thời là cơ sở cho việc tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước. Hiến pháp Việt Nam “là văn kiện chính trị pháp lý quan trọng nhất sau cương lĩnh của Đảng, là đạo luật gốc,..."

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198


Kể từ khi xuất hiện cho đến hiện nay, Hiến pháp được nhìn nhận như là một trong những dấu hiệu thể hiện nền văn minh, nền dân chủ của mỗi một quốc gia. Nhà nước ta là Nhà nước phong kiến và thực dân nửa phong kiến, do vậy không có Hiến pháp. Trước sự phát triển của nền văn minh nhân loại sau cách mạng tư sản ở Âu châu, ở nước ta đã xuất hiện những tư tưởng lập hiến, muốn cho đất nước Việt Nam cũng có một bản Hiến pháp như các nước dân chủ khác. Những tư tưởng này tập trung vào hai khuynh hướng rõ rệt:

1) Những tư tưởng muốn Nhà nước Pháp, với tư cách là một nhà nước bảo hộ ban hành cho nhân dân Việt Nam một bản hiến văn. Đó là những tư tưởng của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, của Nguyễn Ái Quốc, của nhóm cực kỳ vị Pháp. Đó là Bùi Quang Chiêu, Phạm Quỳnh, Lê Văn Bông, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Huy Lục...

Vào những năm hoạt động cách mạng của mình, Phan Bội Châu (1925 – 1940) đã biên soạn cuốn Xã hội chủ nghĩa và tự mình dự thảo một bản Hiến pháp của Việt Nam, trong các tác phẩm này Phan Bội Châu đã tự hình thành ra một số khái niệm của hiến pháp như: Quyền lực nhà nước, chủ quyền nhân dân, dân quyền…

Phan Chu Trinh được Pháp cho sang Pháp học, ông tiếp tục quan điểm “Ỷ Pháp cầu tiến bộ” (dựa vào Pháp để tiến bộ) để thực hiện “Dân trị”, “Dân quyền,” “Dân trị”, thì tự quốc dân Việt Nam phải lập ra hiến pháp và luật lệ của mình.

Cuộc đấu tranh đòi cải thiện “nền công lý ” ở Đông dương do Nguyễn Ái Quốc khởi sướng từ Paris đã bùng lên ở Việt Nam, tập trung ở Sài Gòn, Hà Nội và diễn biến xung quanh tư tưởng lập hiến. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi cho Hội nghị các nước đồng minh thắng trận họp tại Versailles, bản yêu sách đòi cải cách nền pháp lý ở Đông dương. Sau này bản yêu sách được Người diễn thành yêu cầu ca gửi Việt kiều tại Pháp, trong đó có yêu cầu thứ 7 rằng:

Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền.

Năm 1926, Nguyễn Ái Quốc lại nhan danh Người sáng lập ra tờ báo “Việt Nam hồn” cùng với đại diện Hội Phục Việt ở Paris gửi tới Hội Vạn quốc (tiền thân của Liên Hợp quốc) bản tố cáo tội ác của thực dân Pháp đòi quyền độc lập tức khắc cho dân tộc Việt Nam để Việt Nam có thể … “xếp đặt một nền Hiến pháp về phương diện chính trị, xã hội theo những lý tưởng dân quyền…” Sự kiện này cùng với những nhiều hoạt động khác của Nguyễn Ái Quốc, nhất là việc Người thành lập ra Tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, tháng 6 năm 1925 tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam bây giờ, đã dấy lên một phong trào đòi quyền tự do dân chủ, đòi thả Phan Bội Châu, để tang Phan Châu Trinh… đòi lập hiến, sôi nổi nhất là ở Hà Nội và Sài Gòn.

Trong phong trào đòi các quyền tự do dân chủ, ở miền Nam Việt Nam xuất hiện nhóm Lập hiến do Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long đứng đầu. Ở Pháp giới Việt kiều cũng xuất hiện nhóm Lập hiến do Diệp Văn Ký và Dương Văn Giáo đứng đầu. Những nhóm nầy đều gửi Tổng thống Pháp bản kiến nghị yêu cầu nhà nước Pháp ban hành cho nhân dân Việt Nam một bản hiến pháp. Một số yếu nhân của Đảng Lập pháp được thực dân Pháp tham gia và Hội đồng thuộc địa, Hội đồng Canh nông… trở thành chủ đồn điền, nhà băng…Năm 1927 Đảng này tự giải tán.

Trong số những trào lưu trên đáng chú ý là tư tưởng của Phạm Quỳnh chủ bút tờ Nam phong, ngay từ những số ra đầu tiên đã có tư tưởng yêu cầu Pháp “ban cho một cái Hiến pháp thế nào cho cái quan niệm quốc gia của chúng tôi được phát triển ra, cho chúng tôi cũng có cái ở đời làm nước xứng đáng ngay ở trong phạm vi Đế quốc Pháp”.


2) Nhóm thứ hai với quan điểm mang nhiều tính cách mạng triệt để hơn, muốn cho nhân dân Việt Nam có Hiến pháp, thì trước hết phải giành được độc lập cho dân tộc, tự nhân dân Việt Nam sau độc lập dân tộc, sẽ thông qua một bản hiến văn cho mình, mà không dựa vào sự ban hành của thực dân Pháp. Đại diện cho lập trường này Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, sau này là Nguyễn Ái Quốc và những người cộng sản khác… Điểm cần phải chú ý rằng, không ít người trong số họ được trưởng thành từ những dòng tư tưởng thứ nhất. Đó là cả một thời dài chứa đựng nhiều khó khăn trăn trở để tìm đường cứu nước của họ.

Đại diện cho dòng tư tưởng cách mạng triệt để này là các chiến sỹ cộng sản, mà đứng đầu phải kể đến Nguyễn Ái Quốc. Trên mặt trận báo chí, nhất là trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Đảng Cộng sản đã tiến hành cuộc đấu tranh chống tư tưởng cải lương về lập hiến.

Hồ Xanh, bút danh của Nguyễn Thượng Cát, đảng viên Đảng Cộng sản trong bài “Cảm tưởng của chúng tôi về vấn đề Hiến pháp cho nước Nam” trong báo Hồn Trẻ đã viết:

“Lập Hiến hay trực trị chẳng qua chỉ khác nhau cái tên thôi, chứ rút lại đều đứng dưới là cờ ba sắc cả, đều là ở dưới quyền Chính phủ Pháp, như thế Hiến pháp không bao giờ có chân giá trị. ”

Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 năm 1939 đã khẳng định lại chủ
trương đường lối chính sách của Đảng Cộng sản là:

“Đảng Cộng sản đấu tranh cho sự thống nhất dân tộc Việt Nam không phải bằng cách quỵ lụy hay mặc cả với đế quốc ban hành cho một bản Hiến pháp, trái lại bằng cách liên kết tất cả các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái phản đế để đánh đổ đế quốc làm cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng Cộng sản luôn luôn chú ý bênh vực quyền lợi của vô sản và quần chúng lao động và Đảng sẽ lãnh đạo cuộc cách mạng đến triệt để giải phóng giai cấp và dân chúng lao động".


Nhận thức rõ tầm quan trọng của bản hiến văn trong việc khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tức là một nhà nước dân chủ, đoạn tuyệt một cách tuyệt đối với nhà nước quân chủ, nên ngay sau ngày tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ Lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề về sự cần thiết phải có một bản Hiến pháp cho nhà nước Việt nam. Vì vậy lý do quan trọng nhất cho sự ra đời của bản hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam là nhu cầu của công cuộc xây dựng một nhà nước dân chủ, mọi quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân Việt Nam. Hiến pháp như là một bản văn làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức chính quyền dân chủ một cách hợp pháp, cũng như làm cơ sở cho mọi hoạt động của xã hội này.

Ngoài lý do trên việc xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên còn nhu cầu của sự đòi hỏi của sự một lần nữa về mặt pháp lý cùng với Tuyên ngôn độc lập khẳng định độc lập, chủ quyền của dân tộc. Chính vì những lẽ đó, Đảng và Hồ Chủ tịch của Chính phủ Cách mạng Lâm thời rất quan tâm đến việc soạn thảo và thông qua Hiến pháp. Chỉ sau ngày Tuyên bố độc lập, ngày 3 tháng 9 năm 1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch nước đã đề ra 6 nhiệm vụ, trong đó vấn đề thứ ba là việc phải khẩn trương soạn thảo Hiến pháp. Người nói:

“Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp.”

Để tiến hành soạn thảo Hiến pháp, theo Sắc lệnh ngày 20-9-1945 một Uỷ ban dự thảo Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu được thành lập. Bên cạnh việc xem xét, xem xét dự thảo của Ủy Ban Soạn thảo Hiến pháp, Quốc Hội còn xem xét cả dự thảo của các thành viên của Ủy ban Kiến thiết Quốc gia cũng vừa mới được thành lập. Sự khác nhau giữa hai dự thảo này nằm ở chỗ, nếu dự thảo của Ủy ban Kiến thiết Quốc gia có đề xuất việc thành lập một Quốc hội – lập pháp gồm hai viện, thì của Ủy Ban sọan thảo Hiến pháp chỉ có một viện. Quốc Hội đã thảo luận và đi đến thống nhât theo tinh thần dự thảo của Ủy ban Dư thảo Hiến pháp. Dự thảo Hiến pháp được thông qua tại kỳ họp thứ hai Quốc Hội khoá I ngày 8-11-1946. Hiến pháp được thông qua thể hiện đúng tư tưởng chỉ đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo; Tất cả cho cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, và xây dựng một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân.

Hiến pháp năm 1946 là một bản hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam nhưng đã để lại một mốc son lịch sử quan trọng bậc nhất trong sự nghiệp xây dựng và phát triển dân tộc Việt Nam nói chung và trong lịch sử xây dựng chính quyền nói riêng. Lần đầu tiên trong lịch sử mọi người dân đều có quyền bình đẳng ngang nhau trong việc tham gia vào các công việc nhà nước. Hiến pháp gồm 7 chương chia làm 70 điều.

Chương I nói về chính thể quy định: Nhà nước ta là Nhà nước Dân chủ cộng hoà, một loại hình đặc biệt trong việc tổ chức một nhà nước của nhân dân không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, tôn giáo. Tất cả mọi người theo tinh thần đại đoàn kết đều có thể được tham gia vào việc tổ chức và hoạt động của nhà nước của một dân tộc vừa thoát ra khỏi sự thống trị lệ thuộc của thực dân nước ngoài, và địa chủ phong kiến trong nước.

Mô hình độc đắc sau này đã nhanh chóng được triển khai trên nhiều nước giải phóng khỏi sự thống trị của đé quốc thực dân, với mong muốn xây dựng một nhà nước của mọi tầng lớp nhân dân không phân biệt gíai cấp. Ở chương này hiến văn khẳng định bản chất Nhà nước Việt Nam - Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân Việt Nam, mà không mang bản chất của một giai cấp thống trị nào theo quan điểm truyền thống của chủ nghĩa Mác Lê nin, và quan điểm của các lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đương thời; Chương II Hiến pháp nói về quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Mặc dù không có một nội dung riêng nói về nhân quyền, nhưng chương quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã toát yếu lên những nội dung cơ bản của quyền con người, nhất là quy định sở hứu tư nhân về tư liệu sản xuất được nhà nước bảo đảm.

Chương III đến Chương VI Hiến pháp quy định cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước - Nghị viện nhân dân, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính và Toà án. Về cơ cấu tổ chức nhà nước mô hình của Hiến pháp năm 1946 có những dấu ấn như của chính thể cộng hòa lưỡng tính, theo các phân tích của các nhà chính trị học và hiến pháp học hiện nay. Một trong những đặc điểm quan trọng của loại hình tổ chức nhà nước này là Chủ tịch nước không những là Nguyên thủ Quốc gia, người đứng đầu nhà nước, mà còn là trực tiếp lãnh đạo hành pháp, bộ máy quản lý mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội, theo nguyên tắc của chế độ tổng thống. Bên cạnh đó vẫn có Chính phủ, và người đứng đầu Chính phủ phải do Quốc hội / Nghị viện nhân dân thành lập, phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện và có thể bị Nghị viện bỏ phiếu bất tín nhiệm từng thành viên của Chính phủ, cho đến người đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng. Trong khi đó Nguyên thủ Quốc gia người đứng đầu nhà nước, mặc dù cũng do Nghị viện bầu ra, nhưng lại không phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện, trừ tội phản bội Tổ quốc, theo nguyên tắc vô trách nhiệm của Nhà Vua của chế độ đại nghị. Chủ tịch nước cùng với Thủ tướng, bộ trưởng và thứ trưởng hợp thành Nội các có trách nhiệm thực hiện mọi hoạt động hành pháp của nhà nước.

Một điều đáng ngạc nhiên là khi phân tích các dấu hiệu đặc thù của nhà nước được tổ chức theo mô hình lưỡng tính cộng hòa người ta chỉ lấy mô hình tổ chức của Hiến pháp năm 1958 của Pháp làm ví dụ, mà không thấy rằng những đặc điểm của nó đã được thể hiện trong các quy định của Hiến pháp Việt Nam năm 1946 trước đó.

Ngoài những đặc điểm trên thể hiện mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp, Hiến pháp năm 1946 còn những đặc điểm khác rất đặc biệt, mà không thể tìm thấy trong các quy định của các hiến pháp Việt Nam sau này. Ví dụ như các cơ quan tư pháp chỉ được quy định dành riêng có cơ quan tòa án xét xử, và nhất là các cơ quan xét xử này được tổ chức theo các chức năng xét xử: Sơ thẩm; Phúc thẩm và Giám đốc thẩm, mà không như kết hợp giữa nguyên tắc cấp xét xử và cấp đơn vị hành chính như các quy định của các hiến pháp sau này.

Hơn thế nữa việc tổ chức chính quyền địa phương có xu hướng phân biệt giữa thành phố, đô thị với các vùng nông thôn, nghĩa là có xu hướng ở ra khả năng đa dạng hóa các mối quan hệ giữa các cấp chính quyền trung ương và địa phương. Một trong những đặc điểm đó là việc không phải ở mói cấp chính quyền đều các cơ quan đại diện do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra.

Do tình hình chiến tranh, cho nên luật Hiến pháp 1946 chưa được Chủ Tịch nước công bố cho toàn dân thực hiện. Nhưng dựa trên sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuỳ tình hình cụ thể mà tinh thần của các quy định Hiến pháp được thực hiện trên thực tế.

Hiến pháp năm 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam ra đời ngay sau cách mạng tháng Tám 1945, có nhiệm vụ củng cố nền độc lập mà nhân dân ta vừa giành được. Bản hiến pháp đầu tiên trong lịch sử của nước nhà quy định nhân dân không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, tôn giáo là chủ thể của quyền lực nhà nước, quy định cách thức lần đầu tiên nhân dân tự tổ chức thành nhà nước.


Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, miền Bắc Việt Nam tiến lên xây dựng chủnghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ. Hiến pháp năm 1946, tuy không được công bố cho nhân dân toàn quốc thực hiện, nhưng với chỉ thỉ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nơi nào có điều kiện vẫn được thi hành. Theo nhận định của Đảng, Hiến pháp 1946 đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình. So với tình hình mới, xây dựng một chế độ chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa, tức là xây dựng một chế độ dân chủ mới cần phải có một bản Hiến pháp mới.

Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội khoá I kỳ họp thứ mười một ngày 18 tháng 12 năm 1959 thông qua, gồm 10 chương chia làm 72 điều. Chương I: Quy định chính thể của Nhà nước ta vẫn là Nhà nước Dân chủ cộng hoà, tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan Nhà nước khác đều thực hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Bản chất của Nhà nước được Hiến pháp ghi rõ: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng của liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”.

So với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 có thêm chương nói về chế độ kinh tế, Chương II, Điều 9 của chương này quy định:

“Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”.

Chương III Hiến pháp quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Chương IV đến Chương VIII, Hiến pháp quy định về cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước.

Có thể nhận định rằng, Hiến pháp năm 1959 là bản Hiến pháp đầu tiên mang nhiều dấu ấn của việc tổ chức nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mặc dù tên gọi chính thể không thay đổi so với của Hiến pháp năm 1946: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng nội dung tổ chức bên trong của bộ máy nhà nước có những quy định rất khác so với của Hiến pháp 1946. Lý do của sự khác biệt này là sự tiếp thụ các dấu ấn tổ chức nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là việc Nguyên thủ Quốc gia – Chủ tịch nước khác với trước đây không còn thẩm quyền trực tiếp điều hành bộ máy hành pháp, mà được quy định như là một nhân vật siêu phàm vượt lên trên những điều hành thường nhật của bộ máy này, làm biểu tượng cho sự độc lập vĩnh hằng dân tộc, trù liệu cho Hội nghị Hiệp thương thống nhất dân tộc – Hội nghị Hiệp thương Chính trị đặc biệt.Điều 63 của Hiến pháp này quy định:

“Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà công bố pháp luật, pháp lệnh; bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; bổ nhiệm, bãi miễn Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng quốc phòng; công bố lệnh đại xá và lệnh đặc xá; tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước; tuyên bố tình trạng chiến tranh; công bố lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm".

Cơ chế tập trung, bao cấp kế hoạch hóa được Hiến pháp này thể hiện bằng rất nhiều quy định. Ví dụ việc bỏ các quy định về các khu tự trị, các tổ chức chính quyền địaphương được tổ chức như nhau ở tất cả các cấp chính quyền địa phương, Viện kiểm sát nhân dân với chức năng kiểm sát chung được thành lập, các cấp tòa án được tổ chức ra theo các đơn vị hành chính…

Nếu như ở Hiến pháp năm 1946, bộ máy nhà nước được quy định theo nguyên tắc phân quyền, thì bộ máy nhà nước của Hiến pháp năm 1959 được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, và nguyên tắc trung dân chủ. Mọi quyền lực tập trung vào trong tay Quốc hội. Ngay cả Nguyên thủ Quốc gia cũng phải do Quốc Hội bầu ra và bãi miễn. Mặc dù các quy định của Hiến pháp vẫn thừa nhận sự của loại hình sở hữu tài sản tư nhân (Điều 16), nhưng vì phải thực hiện công cuộc cải tạo công thương để nhanh chóng tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, nên loại hình sở hữu này hầu như không có điều kiện tồn tại trên thực tế.

Bắt đầu từ đây các bản hiến pháp của nhà nước Việt Nam mang tính định hướng, tính chương trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản cho sự phát triển theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Hiến pháp năm 1959 ban hành sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đề ra nhiệm vụ củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam. Một nhà nước quá độ từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội.
(Xem thêm tại:Thư viện pháp luật)

4. Hiến pháp năm 1980

Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, mở ra công cuộc cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp 1959 hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đất nước chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Việt Nam lại cần một bản Hiến pháp mới. Đó là bản Hiến pháp khẳng định những thành qủa của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc, và quy định việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn vẹn lãnh thổ đất nước, tức là xây dựng một chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên toàn vẹn lãnh thổ đất nước Việt Nam.

Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn vẹn đất nước. Hiến pháp 1980 được Quốc hội khoá VI kỳ họp thứ bảy thông qua ngày 18 tháng 12 năm 1980. Hiến pháp này gồm có 12 chương 147 điều. So với các bản hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1980 là bản hiến pháp tham khảo nhiều kinh nghiệm việc tổ chức và xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước trong hệ thống chủ nghĩa xã hội nhiều nhất của các nước Liên xô và Đông Âu.

Có thể nói rằng Hiến pháp năm 1980 là một bản Hiến pháp thể hiện một cách đầy đủ nhất những nhận thức cũ của Việt Nam về dân chủ của chủ nghĩa xã hội. Đó là một nhà nước chuyên chính vô sản, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20. Chương thứ nhất, Hiến pháp quy định chế độ chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước đó là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất; Cách mạng khoa học kỹ thuật; Cách mạng tư tưởng và văn hoá - Trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật làm then chốt, tiến hành xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội tiến tới chủ nghĩa cộng sản".

Điểm đặc biệt ở chương này còn nằm ở chỗ Hiến pháp không những quy định bản chất giai cấp chuyên chính vô sản của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà còn quy định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chương II, Hiến pháp quy định chế độ kinh tế. Hiến pháp không quy định sở hữu tư nhân được tồn tại trong xã hội, có chăng chỉ là sơ hữu cá nhân với mục đích để đáp ứng những nhu cầu sinh họat của cá nhân, mà không được sử dụng làm mục đích kinh doanh. Mục đích những quy định của chương này sẽ có phần giúp cho việc hoàn thành thắng lợi mục tiêu xây dựng xong cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội trong vòng 20 năm, tức là hết thế kỷ 20, bước sang thế kỷ mới – 21, sẽ bắt đầu cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển toàn diện.

Khác với các Hiến pháp trước đây, các quy định của Hiến pháp năm 1980 thể hiện rất rõ những nguyên tắc chịu trách nhiệm tập thể trong các cơ quan nhà nước được đẩy lên rất cao. Các thiết chế chịu trách nhiệm cá nhân được thay các chế định, mà hoạt động của chúng chứa đựng nguyên tắc tập thể cùng chịu trách nhiệm trong bộ máy nhà nước. Ví dụ như: Chế định Nguyên thủ Quốc gia - Chủ Tịch nước của Hiến pháp 1959 được thay bằng chế định Hội đồng Nhà nước. Không những là Nguyên thủ quốc gia tập thể của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hội đồng Nhà nước còn đảm nhiệm chức năng thường trực giữa hai kỳ họp Quốc hội của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội theo quy định của Hiến pháp năm 1959. Chế định Hội đồng Chính phủ được thay băng Hội đồng Bộ trưởng….

Nói chung các nội dung của Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 không có gì khác nhau về cơ bản. Chúng đều thể hiện cơ chế cũ của chúng ta về chủ nghĩa xã hội. Đó là những bản hiến pháp có mong muốn xây dựng càng nhanh càng tốt các đặc điểm tiêu chí theo cách hiểu cũ của chúng ta về chủ nghĩa xã hội. Việc xóa bỏ sở hữu tư nhất là một trong những tiêu chí của việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Chính quy định nói trên đã làm cơ sở cho việc tiến hành các cuộc cải cách ruộng đất và cải tạo công thương của những năm năm mươi và sáu mươi ở miền Bắc và cuộc cải tạo công thương của ở miền Nam những năm bảy mươi ở miền Nam của thế kỷ trước đây. Sau những cuộc cải tạo này ở miền Bắc cũng như sau này ở miền Nam chỉ còn tồn tại 2 loại hình sở hữu: Sơ hữu toàn dân (Sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể). Đó là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm cuối cùng của thế kỷ XX, mà buộc Đảng , Nhà nước phải tiến hành công cuộc đổi mới và mở cửa như hiện nay.

5. Hiến pháp năm 1992

Như trên đã nêu, Hiến pháp 1980 là Hiến pháp của cơ chế cũ - Cơ chế tập trung kế hoạch của những nhận thức cũ về chủ nghĩa xã hội. Nói chung cơ chế này đã có tác dụng rất to lớn cho công cuộc chiến thắng thực dân và đế quốc những năm trước đây, nhưng sang đến một nền hòa bình, xây dựng và phát triển kinh tế, nó đã đảy đất nước Việt Nam đến bờ vực của sự khủng hoảng kinh tế và xã hội. Không riêng gì của Việt Nam, cả hệ thống xã hội chủ nghĩa thời kỳ này đều bước vào giai đoạn khủng hoảng. Để dẫn dắt đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới. Công cuộc đổi mới được bất đầu bằng đổi mới tư duy, rồi tiếp theo là đổi mới kinh tế. Bước đầu công cuộc đổi mới kinh tế đã thu được một số thắng lợi, khắc phục dần sự khủng hoảng kinh tế xã hội. Để thúc đẩy công cuộc đổi mới thu được nhiều thắng lợi hơn nữa, chúng ta bắt tay vào công cuộc đổi mới chính trị, cụ thể là thay đổi Hiến pháp.

Sự lãnh đạo của Đảng thông qua Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, thể hiện rất rõ trong tiến trình soạn thảo Hiến pháp sửa đổi. Sự lãnh đạo đó thể hiện qua những quan điểm chỉ đạo sau đây:

Thứ nhất, Hiến pháp mới phải thể chế hoá đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, đẩy mạnh đổi mới kinh tế, đồng thời đổi mới vững chắc về chính trị; Khẳng định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn; Căn cứ vào những nội dung chủ yếu của cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội Đảng lần thứ VII đề ra.

Hiến pháp, phải dựa vào và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào những hoàn cảnh cụ thể ở nước ta, những kinh nghiệm đúc kết được qua quá trình thi hành ba bản Hiến pháp, cũng như đóng góp của cán bộ, nhân dân và kinh nghiệm của nước ngoài.

Thứ hai, Hiến pháp sửa đổi vẫn phải khẳng định tính chất Nhà nước ta là Nhà nước chuyên chính vô sản. Tính chất giai cấp của Nhà nước không thay đổi, nhưng nội dung thể hiện của chuyên chính vô sản là chính quyền Nhà nước thuộc về nhân dân, và chính quyền đó phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hiến pháp sửa đổi phải tiếp tục khẳng định mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực thông qua Quốc hội do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc Hội, không phân chia các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, theo thuyết “Tam quyền phân lập.” Nhưng khác hơn ở chỗ phải có sự phân công, phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao để mỗi cơ quan thi hành có hiệu lực chức năng, quyền hạn của mình, với sự phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực Nhà nước thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, thực hiện quản lý Nhà nước bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung của công cuộc đổi mới của Đảng. Bộ máy Nhà nước nói chung và hệ thống hành chính cần được đổi mới một cách vững chắc có bước đi thích hợp với đặc điểm tình hình, điều kiện nước ta, phù hợp với cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế mới, kế thừa, phát huy kết quả và kinh nghiệm thực tế thu được trong việc xây dựng bộ máy Nhà nước mấy chục năm qua, đồng thời tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài.

Thứ ba, Hiến pháp phải thể chế hoá nền dân chủ XHCN, nhân dân làm chủ đất nước. Hiến pháp sửa đổi phải quy định rõ hơn và đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ của công dân, các quyền cơ bản của con người được tôn trọng và bảo vệ bằng pháp luật.

Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Quyền và nghĩa vụ của công dân phải kết hợp hài hoà những yêu cầu của cuộc sống với tự do chân chính của cá nhân, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, của cá nhân và thực tế có khả năng thực hiện được.

Đi đôi với mở rộng quyền tự do dân chủ phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật, tránh tình trạng lợi dụng các quyền công dân để gây mất ổn định chính trị, làm thiệt hại đến lợi ích chung của Tổ quốc và của nhân dân.
Thứ tư, Hiến pháp sửa đổi khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước, xã hội. Vai trò và trách nhiệm đó do sứ mệnh lịch sử giao phó, nhân dân thừa nhận và cũng được Hiến pháp xác định.

Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, Chiến lược, các định hướng về chính sách, chủ trương lớn được thể chế hoá trong Hiến pháp và pháp luật, bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục vận động tổ chức và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; Đảng giới thiệu đảng viên ưu tú và công dân ngoài Đảng có đủ năng lực phẩm chất ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước.

Việc sửa đỏi Hiến pháp năm 1980, thể hiện đúng tinh thần chỉ đạo của Đảng Cộng sản được diễn ra 3 giai đoạn; Giai đoạn đầu được tiến hành ngay sau năm 1986, tức là sau Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ VI. Với mục đích mở cửa làm ăn và quan hệ ngoại giao với tất cả với các nước không phân biệt chế độ chính trị, Hiến pháp năm 1992 đã không chỉ rõ những địa chỉ thực dân, đế quốc và bành trướng như của Hiến pháp 1980. Giai đoạn thứ hai được tiếp hành tiếp theo bằng việc thay đổi những quy định của Hiến pháp 1980 và của những đạo luật tiếp theo thể hiện rõ lực cản của công cuộc cải tổ và đổi mới.

Giai đoạn thứ ba được tiến hành bằng việc sửa đổi một cách toàn diện toàn văn Hiến pháp 1980 bằng cách thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công đứng đầu.

Hiến pháp 1992, được Quốc Hội khoá VII thông qua ngày 15 tháng 4 năm 1992 gồm 12 chương 147 điều. Bốn chương đầu, Hiến pháp quy định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá, giáo dục khoa học và công nghệ, được gọi là những quy định chung, tạo nên cơ sở của việc xây dựng chính quyền trong một nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội . Chương V quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Chương VI đến chương X về bộ máy Nhà nước. Chương XI quy định biểu tượng Nhà nước: Quốc ca, quốc huy, quốc kỳ, quốc khánh. Chương XII về hiệu lực pháp lý của Hiến pháp. Hiến pháp 1992 đã thể chế hoá đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, đổi mới chậm chắc về chính trị, mở rộng dân chủ nhân dân.

Về cơ cấu và số điều khoản của Hiến pháp 1992 không thay đổi so với của năm1980, nhưng về mặt nội dung có rất nhiều thay đổi. Đó là những quy định thể hiện nhận tức mới của Việt Nam thời mở cửa đổi mới.

Trước hết đó là việc Hiến pháp thời mở cửa không quy định rõ bản chất chuyên chính vô sản của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bản chất đó được thể hiện qua quy định “nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”.

Thứ hai là việc lần đầu tiên trong Hiến pháp Việt Nam thừa nhận những hạt nhân hợp lý của học thuyết phân chia quyền lực bằng cách phân công, phân nhiệm rạch ròi giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Thứ ba là từ bỏ những quy định thể hiện cơ chế tập trung, kế hoạch, bao cấp của những nhận thức cũ. Đó là việc tách chức năng nguyên thủ quốc gia và thường trực giữa hai kỳ họp Quốc hội của Hội đồng Nhà nước thành 2 chế định riêng rẽ là Chủ Tịch nước cá nhân và Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Thứ tư, mặc dù là đổi mới toàn diện, nhưng hiến pháp vẫn phải đảm sự ổn định chế độ chính trị. Đây là một đặc điểm đặc biệt của công cuộc đổi mới, mở cửa của nhà nước Việt Nam từ từ không đột biến, khác với sự đổi mới một cách đột ngột gây ra một hậu quả làm cho xã hội rối ren của các nhà nước của hệ thống xã hội chủ nghĩa Liên xô và Đông Âu cũ. Đó là một sự đỏi mới chậm chắc về chính trị, mà nội dung biểu hiện của chúng là: Chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản vẫn được giữ nguyên trong các quy định của Hiến pháp 1992 .

Hiến pháp năm 1992 là Hiến pháp đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, củng cố những thành tựu bước đầu trong công cuộc đổi mới kinh tế, chính trị, văn hoá, từ sau đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, định rõ những nhiệm vụ cho những năm tới theo Cương lĩnh và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.

Hiến pháp 1992 là bản Hiến pháp thứ tư của nước ta. Mỗi một bản Hiến pháp đánh dấu một thời kỳ hay một giai đoạn cách mạng, củng cố về mặt pháp lý những thắng lợi đã đạt được và bảo đảm phát huy những thắng lợi đó trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Được ban hành trong tình hình thế giới đang có những biến động nhanh chóng, phức tạp, trước sự đổ vỡ của nhiều nước XHCN, trong điều kiện công cuộc đổi mới mặc dù đã dành được một số thắng lợi, nhưng còn rất nhiều khó khăn, Hiến pháp năm 1992 là biểu hiện sự đồng tâm, nhất trí cao độ của Đảng và nhân dân ta trong việc tiếp tục con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Hiến pháp năm 1992 là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất thể chế hoá đường lối, chủ trương Đại hội Đảng cộng sản Việt nam lần thứ VII vào cuộc sống.

Trong khi miền Bắc có Hiến pháp theo dạng của các nước xã hội chủ nghĩa, thì ở Miền Nam cũng có Hiến pháp. Như đã nêu, theo lệnh của đế quốc xâm lược, chính quyền Sài Gòn từ chối việc hiệp thương tổng tuyển cử theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ thành lập ra “Nhà nước Việt Nam cộng hoà.

Ngày 20 tháng 10 năm 1956 “Quốc hội” Việt Nam Cộng hòa thông qua một bản Hiến pháp gọi là “Hiến pháp Việt Nam cộng hoà”. Bản Hiến pháp này được Ngô Đình Diệm, nhân danh tổng thống Việt Nam cộng hoà ban hành năm 1956. Theo bản Hiến pháp này, việc tổ chức quyền lực Nhà nước của chính quyền Việt Nam tập trung vào tay Tổng thống.

Quốc hội có quyền lập pháp, Tổng thống có quyền hành pháp, nhưng trên thực tế quyền hạn của Tổng thống là rất to lớn, lấn át hoàn toàn Quốc hội. Hơn nữa, theo quy định của Hiến pháp thì Tổng thống không những chỉ có quyền hành pháp, mà còn có cả quyền lập pháp.

Tổng thống có quyền bổ nhiệm và cách chức tất cả các quan chức dân sự và quân sự (Điều 37); Bổ nhiệm các sứ thần; Và tổng tư lệnh tối cao các lực lượng quân sự (Điều 37); Có quyền ân xá, ân giảm, hoán cải hình phạt, huyền án (Điều 37); Có quyền ân xá, ân giảm, hoán cải hình phạt, huyền án (Điều 37); Ký kết và phê chuẩn các điều ước và hiệp định quốc tế, thay mặt quốc gia trong việc giao tiếp với ngoại quốc (Điều 35); Tuyên chiến hoặc ký hoà ước với sự thoả thuận của một nửa tổng số đại biểu Quốc hội; Tức là, Tổng thống nắm trong tay quyền tối cao về hành chính quân sự và ngoại giao. Về tư pháp Tổng thống có quyền bổ nhiệm thẩm phán.

Về lập pháp, Tổng thống có quyền đình việc đưa các dự thảo luật cho Quốc hội xem xét. Giữa hai kỳ họp của Quốc hội, Tổng thống được quyền ban hành các sắc luật (Điều 41 và Điều 42). Tổng thống có quyền phủ quyết (VETO) các dự án luật đã được Quốc hội thông qua.

Qua một số những quy định nêu trên, có thể nói Hiến pháp Việt Nam cộng hoà là Hiến pháp độc tài của một chế độ phát xít. Hiến pháp đó tổ chức nền thống trị độc tài của chế độ Tổng thống. (Xem, Định Gia Trinh - Hiến pháp Mỹ Diệm, một công cụ nô dịch nhân dân miền Nam, NXB Sự thật H. 1959 trang 36).
Sau khi chế độ độc tài Ngô Đình Diệm bị đổ, ở miền Nam Việt Nam bản Hiến pháp 1967 đã được ban hành thay cho Hiến pháp1956.

Khi Quốc hội lập hiến miền Nam Việt Nam thảo luận bản dự thảo Hiến pháp 1967, Uỷ ban lãnh đạo quốc gia gửi thông điệp yêu cầu phải quy định ưu tiên cho cơ quan hành pháp, bằng cách ghi thêm vào Hiến pháp nguyên tắc thăng bằng giữa ba cơ quan công quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Với lý do sự ưu tiên đó sẽ làm nảy sinh và dẫn đến thành nguy cơ lợi dụng quyền lực hành pháp độc tài như chế độ Ngô Đình Diệm, Quốc hội lập hiến đã không nhất trí với đề nghị trên.

Nhưng mặc dù vậy Hiến pháp 1967 của miền Nam Việt Nam vẫn tập trung quyền lực cho Tổng thống. Như quy định của Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa kỳ và của Hiến pháp Pháp - nền Cộng hoà thứ V 1958, trong Hiến pháp 1967 của Việt Nam Cộng hoà: Quyền hành pháp được quốc dân uỷ nhiệm cho Tổng thống, Tổng thống có Phó Tổng thống giúp việc, Tổng thống và Phó Tổng thống do dân trực tiếp bầu ra theo một liên danh. Nhưng khác với Hiến pháp 1956, trong bộ máy hành pháp còn có Thủ tướng, Tổng thống có trách nhiệm hoạch định chính sách quốc.
6. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001

Hiến pháp năm 1992 là một bản Hiến pháp thể hiện quan điểm, nhận thức mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bản Hiến pháp này đã có tác dụng nhất định cho việc khắc phục được những sự khủng hoảng kinh tế và xã hội đã và đang sẩy ra ở nước ta vào những năm đầu của thập kỷ 80 của thế kỷ 20: Sự khủng hoảng kinh tế và xã hội, không những được ngăn chặn, mà còn có chiều hướng tăng trưởng GDP.

Đánh giá ý nghĩa của Hiến pháp năm 1992, không ít người đã cho rằng:

"Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh đất nước đang trong thời kỳ quá độ của sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc ra đời của Hiến pháp năm 1992 là đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn đất nước trong thời kỳ chuyển đổi ở những năm 90 của thế kỷ XX mà chưa phải bối cảnh hiện nay "đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nhiệp theo hướng hiện đại".

Trải qua 10 năm thực hiện những điểm yếu có tác dụng cản trở, có tính chất vướng mắc công việc quản lý của nhà nước, của các hoạt động kinh tế hiện nay của Hiến pháp năm 1992 đã buộc lộ rõ nét, việc thực hiện những quy định này trở thành những lực cản cho thực tế phát triển của đất nước.

Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Khoá VIII đã xác định: "Khẩn trương nghiên cứu đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, phù hợp với tình hình mới." Trọng tâm của việc sửa đổi lần này là các quy định về bộ máy Nhà nước. Các quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước trong Hiến pháp năm 1992 chưa thể hiện được đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ cần được được phát huy trong nền kinh tế thị trường với yêu cầu thúc đẩy đất nước theo hướng công nghiệp và hiện đại gia, còn Thủ tướng và nội các có trách nhiệm thực thi chính sách. Nếu cơ quan hành pháp tỏ ra kém hữu hiệu, Quốc hội sẽ chất vấn và cần thiết sẽ lật đổ nội các cùng Thủ tướng với đa số 2/3 tổng số dân biểu và nghị sĩ (Điều 42). Tổng thống có quyền bổ nhiệm Thủ tướng và theo đề nghị của Thủ tướng, Tổng thống bổ nhiệm các bộ trưởng. Những quy định trên hoàn toàn giống như những quy định của Hiến pháp Nhà nước 1958. Nhưng điểm khác nhau ở chỗ nhằm mục đích chống lại sự khủng hoảng của chế độ chính trị, người Pháp tăng cường quyền lực của Tổng thống, còn người Việt (miền Nam Việt Nam) với mục đích tránh sự độc tài của Tổng thống lại đặt ra một thiết chế Thủ tướng.

Quyền lập pháp được quốc dân uỷ nhiệm cho Quốc hội gồm hai viện: Hạ nghị viện và Thượng nghị viện (Điều 30). Hạ nghị viện có nhiệm kỳ 4 năm do cử tri toàn quốc bầu ra theo thể thức đơn danh có nhiệm vụ đại diện quyền lợi cho các địa phương. Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 6 năm, bầu theo thể thức liên danh đa số, có nhiệm vụ đại diện quyền lợi của toàn quốc. Quốc hội có thẩm quyền biểu quyết các đạo luật phê chuẩn hiệp ước và hiệp định quốc tế, quyết định tuyên chiến và nghị hoà, tuyên bố tình trạng chiến tranh, kiểm soát việc thi hành chính sách quốc gia của Chính phủ (Điều 39).

Quyền tư pháp (xét xử) do Tối cao Pháp viện và các toà án khác đảm nhiệm. Chính quyền Nhà nước ở địa phương gồm có các hội đồng là cơ quan quyết định và có các cơ quan hành pháp là xã trưởng, tỉnh trưởng, thị trưởng và đô trưởng Sài gòn.

Hơn nữa sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới nhận thức của Đảng và Nhà nước cũng như của nhân dân ta về vị trí vai trò của nhà nước trong điều kiện mới của nền kinh tế thị trường ngày càng hoàn thiện hơn cũng cần phải khẳng định trong đạo luật căn bản của quốc gia. Chẳng hạn như vấn đề chức năng, sứ mệnh, vai trò xã hội của Nhà nước được sinh ra không phải để làm thay xã hội, để quản lý xã hội, mà là để thực hiện dịch vụ công, hướng dân khơi nguồn cho tiềm năng của xã hội được bộc lộ được phát huy, tạo ra hành lang cho xã hội hoạt động và phát triển.

"Trong bối cảnh ngày nay, vấn đề cơ bản, quan trọng đầu tiên là cùng với việc tiếp tục khẳng định bản chất của nhà nước ta, cần làm rõ vấn đề vai trò, chức năng và sứ mệnh xã hội của Nhà nước trong điều kiện xây dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nhà nước pháp quyền, một nền dân chủ thực sự của dân, do dân và vì dân. Bộ máy Nhà nước phải là một thiết chế dân chủ và phục vụ cho mục tiêu thực hiện dân chủ; hoạt động có hiệu quả trên cơ sở thực hiện viẹc xã hội hoá rộng rãi. Nhà nước tạo ra môi trường, hành lang để xã hội làm những công việc của xã hội, còn Nhà nước tập trung thực hiện các chức năng cần có của mình. Nhà nước không nên và không thể bao biện và làm thay xã hội".

Điểm khác căn bản ở Hiến pháp sửa đổi là sự khẳng định việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Điều 2 - điều nói về bản chất Nhà nước Việt Nam, quy định:

"Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức".

Nội dung cơ bản của việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nằm ở chỗ tăng cường
quyền lực cho Quốc hội, bằng cách cắt bỏ quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm các chức danh bộ trưởng và tương đương của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; tăng cường trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội, bằng việc Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm các bộ trưởng cho đến cả Thủ tướng – người đứng đầu Chính phủ; tăng cường công việc buộc tội một cách chính xác, nhằm tránh các hiện tượng buộc tội oan sai của Viện kiệm sát, bằng cách bỏ chức năng kiểm sát chung, tập trung vào chức năng buộc tội của Viện Kiểm sát.


Qua bốn bản Hiến pháp nêu trên đều thể hiện rõ tư tưởng sau đây:

-Từ nhà nước đầu tiên với tên là Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hiến pháp năm 1946 cho đến nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân: Quyền lực nhà nước luôn luôn thuộc về nhân dân. Đó là một nhà nước dân chủ, mà không phải là một nhà nước quân chủ, độc tài và chuyên chế như những nhà nước của chế phong kiến, hoặc ở chế độ thuộc địa của đế quốc, thực dân trước đây.

- Xuất phát từ bài học giành độc lập đầy gian khổ và mất mát, các bản Hiến pháp của Nhà nước chúng ta đều khẳng định rõ: Nhà nước chúng ta là một Nhà nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. Đối với Hiến pháp Việt Nam, vấn đề độc lập chủ quyền như là một vấn đề tiên quyết cho việc khẳng định quyền lực nhà nước Việt Nam thuộc về nhân dân Việt Nam.

Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Xây dựng đất nước Việt nam giàu đẹp, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Mọi quyền lực Nhà nước đều thuộc về tay nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước của mình một cách trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan đại diện do nhân dân trực tiếp bầu ra.

- Việc tổ chức quyền lực Nhà nước theo nguyên tắc tập quyền không phân chia theo quan điểm “Tam quyền phân lập” của các nhà nuớc tư bản. Quyền lực Nhà nuớc tập trung vào Quốc Hội nhưng vẫn có sự phân công, phân nhiệm rạch ròi giữa các cơ quan tạo thành hệ thống thống nhất các cơ quan Nhà nước.

- Việc tổ chức quyền lực Nhà nước luôn luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản - Đảng của liên minh giai cấp công nhân, nông dân, tri thức, được tổ chức dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Càng ngày Hiến pháp Việt Nam càng thể hiện xu thế có tính quy luật, mở rộng quyền tự do, dân chủ của nhân dân Việt Nam.

- Hiến pháp Việt Nam của những năm trước đây và hiện nay đều là những hiến pháp của những thời kỳ quá độ, của một đất nước đang phát triển, nên các quy định của chúng chứa định nhiều tính định hướng cho tương lai, nhất là của Hiến pháp năm 1980, tính chương trình, tính định hướng chính trị là một trong những đặc trưng của chúng. Nhiều quy định còn thể hiện sự nhận thức không đầy đủ của chúng ta về chủ nghĩa xã hội.

Thạc sỹ Phạm Ngọc Minh - Khoa Luật Trường Đại học Hòa Bình


Liên kết đào tạo và hợp tác việc làm giữa Trường Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest là hoạt động cần thiết để giải quyết thực trạng chênh lệch giữa nhu cầu của doanh nghiệp và sự đáp ứng của nhà trường. Hướng đến mục tiêu đào tạo 100% sinh viên có việc làm sau khi trường, Trường Đại học Hòa Bình triển khai liên kết chặt chẽ với Công ty Luật TNHH Everest trong công tác đào tạo sinh viên và tạo điều kiện việc làm cho sinh viên mới ra trường. Để được tư vấn pháp luật, Quý khách vui lòng gọi tới tổng đài tư vấn 19006198.