-->

Làm hơn 04 tháng, có được trả trợ cấp thôi việc không?

Để được hưởng trợ cấp thôi việc thì người lao động phải làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên.

Hỏi: Luật sư cho em hỏi về trợ cấp thôi việc, công ty em có công nhân vào làm ngày 20/03/2015 nhưng đến 01/04/2015 mới đóng bảo hiểm thất nghiệp , 30/07/2015 nghỉ việc vậy từ 20/03/2015 đến 30/07/2015 công ty em có phải trả trợ cấp thôi việc cho công nhân này không? Nếu có thì phài tính như thế nào? (Bùi Luyên - Hà Nội)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Văn Lâm - Tổ tư vấn pháp luật Lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 48 Bộ luật lao động 2012 quy định về trợ cấp thôi việc như sau:

"1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương. 2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc. 3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc".

Theo như quy định trên, để được hưởng trợ cấp thôi việc thì người lao động phải làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên. Còn trong trường hợp này, thời gian làm việc của người lao động chưa đủ 12 tháng trở lên (cụ thể là 20/03/2015 đến 30/07/2015) cho nên không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thôi việc.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.