Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.
Hỏi: Bà tôi có 3 người con trai, bác thứ nhất đã chết năm 2005, bác thứ 2 lập gia đình và sinh sống tại Lạng Sơn, và bố tôi. Hiện bà đang ở với cháu trai trưởng là con của bác thứ nhất. Bà tôi có chuyển cho bố mẹ tôi mảnh ruộng của bà là 1 sào 3 thước để sau khi bà chết thì lo ma và cúng dỗ bà. Ngay sau đó, trước hợp tác xã, hội đồng hợp tác xã và các bác trong họ, bà tôi đã ký vào giấy chuyển nhượng quyền sử dụng mảnh ruộng đó. Bố mẹ tôi từ ngày đó vẫn nộp thuế và sản ruộng đều. Đến nay, hợp tác xã thông báo lấy đất để xây siêu thị và sẽ tiến hành đến bù cho những nhà bị thu hồi trong đó có nhà tôi. Sau đó bà tôi sang đòi lại đất. Xin hỏi Luật sư, bố tôi đã là chủ của mảnh đất đó chưa và bà tôi có quyền đòi lại không? (Nguyễn Văn Điểu – Thanh Hóa)
Luật gia Trần Thu Trang - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo như thông tin bạn cung cấp cho chúng tôi thì bà bạn đã để lại quyền sử dụng hơn 1 sào đất cho bố mẹ bạn và điều quan trọng hơn là bà đã ký vào giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, việc bà bạn ký vào giấy đó chưa đủ làm căn cứ để bố bạn làm chủ sở hữu diện tích đất này.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 188 Luật đất đai 2013 thì
"Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính".
Như vậy, diện tích đất 1 sào 3 thước này đã được chuyển quyền sử dụng nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng. Do đó, để làm chủ sử dụng hợp pháp diện tích đất này thì gia đình bạn cần phải làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất. Thủ tục được quy định tại Điều 82 Nghị định 43/2014/NĐ-Cp như sau:
Điều 82. Thủ tục đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với trường hợp đã chuyển quyền sử dụng đất nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền theo quy định
"1. Trường hợp người đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 01 năm 2008 mà đất đó chưa được cấp Giấy chứng nhận và không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này thì người nhận chuyển quyền sử dụng đất thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu theo quy định của Luật Đất đai và quy định tại Nghị định này mà không phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất; cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được bắt buộc người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp hợp đồng, văn bản chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp người đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 mà bên nhận chuyển quyền sử dụng đất chỉ có Giấy chứng nhận của bên chuyển quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền sử dụng đất theo quy định thì thực hiện theo quy định như sau: a) Người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và các giấy tờ về quyền sử dụng đất hiện có; b) Văn phòng đăng ký đất đai thông báo bằng văn bản cho bên chuyển quyền và niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất về việc làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người nhận chuyển quyền. Trường hợp không rõ địa chỉ của người chuyển quyền để thông báo thì phải đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương ba số liên tiếp (chi phí đăng tin do người đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trả); c) Sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo hoặc đăng tin lần đầu tiên trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương mà không có đơn đề nghị giải quyết tranh chấp thì Văn phòng đăng ký đất đai lập hồ sơ để trình cơ quan có thẩm quyền quyết định hủy Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp không nộp Giấy chứng nhận để làm thủ tục đồng thời cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mới cho bên nhận chuyển quyền.
Trường hợp có đơn đề nghị giải quyết tranh chấp thì Văn phòng đăng ký đất đai hướng dẫn các bên nộp đơn đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo quy định".
Trong trường hợp gia đình bạn đã làm thủ tục sang tên thì việc đòi lại đất sẽ không thể thực hiện được, vì việc chuyển nhượng đất sẽ có hiệu lực từ thời điểm đăng ký xác lập quyền sử dụng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận