Không muốn sống với chồng, điều kiện để được ly hôn là gì?

Luật sư tư vấn về điều kiện để ly hôn...

Hỏi: Cách đây 03 năm khi em gái tôi đang có thai đứa con thứ hai thì chồng bỏ đi đến giờ không liên lạc gì cả mặc cho em tôi một mình nuôi hai con nhỏ rất khổ cực.Bây giờ em gái tôi muốn ly hôn để ổn định cuộc sống nhưng về huyện thì họ bảo phải có chồng mới được hoặc ly hôn theo thông báo mấttích hoặc vắng mặt nhưng như vậy thì án phí cao quá mà em tôi vừa đilàm vừa nuôi 02 con nhỏ nữa. Vậy xin hỏi luật sư có cách giải quyết nào khác không? (Thu Thảo - Hà Nội)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất, về quyền yêu cầu ly hôn và quy trình khởi kiện việc ly hôn:Em bạn được quyền đơn phương ly hôn.Tòa án xem xét, quyết định cho ly hôn khi đáp ứng đủ các điều kiện về tình trạng đời sống, mục đich hôn nhân để quyết định cho ly hôn. Hồ sơ khởi kiện về việc xin đơn phương ly hôn được nộp tại Tòa án nhân dân cấp quận/huyện nơibị đơn(chồng) đang cư trú, làm việc theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo thông tin mà bạn cung cấp thì người chồng đã bỏ đi được 3 năm, vậy em gái bạn cần nỗ lực tìm kiếm để biết được nơi cư trú hiện tại của người chồng, từ đó mới có thể nộp đơn yêu cầu ly hôn. Trường hợp có thông tin về người chồng nhưng khi khởi kiện ly hônthuộc vào các trường hợp: Nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt;Nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có người đại diện hợp pháp tham gia phiên toà; Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt;Nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có người đại diện hợp pháp tham gia phiên toà. Thì tòa án vấn tiến hành xét xử vụ án mặc dù không có mặt đương sự.Điều 78 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: Khi một người biệt tích 2 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích. Thời hạn 2 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó.Nếu như quá trình tìm kiếm không đạt kết quả em gái bạn có thể làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích.
Sau 4 tháng kể từ ngày đăng, phát thông báo đầu tiên mà người bỏ đi vẫn không trở về hoặc có tin tức báo về thì tòa sẽ họp xét đơn yêu cầu tuyên bố công dân mất tích. Sau khi tòa án tuyên bố người mất tích, em bạn mới được làm đơn xin ly hôn.
Thứ hai, về các khoản án phí, lệ phí.Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và pháp lệnh về án phí, lệ phí tòa án thì yêu cầu tòa án tuyên bố một người mất tích phải chịu lệ phí giải quyết việc dân sự. Căn cứ vào danh mục ban hành kèm theo pháp lệnh về án phí, lệ phí thì lệ phí sơ thẩm và phúc thẩm để giải quyết việc dân sự là 200.000 đồng.Cũng căn cứ vào những văn bản trên thì yêu cầu ly hôn phải nộp án phí sơ thẩm là 200.000 đồng nếu không có tranh chấp về tài sản.
Như vậy, việc em gái bạn là người khởi kiện việc ly hôn thì em bạn phải đóng án phí (kể cả trường hợp người chồng không mất tích). Còn nếu không tìm được người chồng mà muốn yêu cầu tòa tuyên bố chồng mất tích thì mức lệ phí phải đóng cũng không quá lớn (200.000 đồng)
Thứ ba, pháp lệnh về án phí, lệ phí có quy định một số trường hợp được miễn, miễn một phần tại các Điều 13, Điều 14. Nếu hoàn cảnh của em bạn thuộc một trong các trường hợp trên thì có thể làm đơn yêu cầu tòa xem xét việc miễn tiền án phí, lệ phí.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.