Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.
Hỏi: Năm nay 24 tuổi và đang làm mẹ đơn thân. Em có 01 đứa con riêng 03 tuổi. E đi làm và em có quen bạn trai. Em và bạn trai có chung một đứa bé nhưng bạn trai em ko quan tâm. Em mang bầu và sinh bé 01 mình. Khi em sinh em bé, anh ấy có gửi cho em một số tiền để em sinh nở. Đến bây giờ cha của bé đòi kiện và dành quyền nuôi con với em.Anh ấy nói em ko có quyền dành con với anh ấy vìkinh tế củaem bấp bênh, anh ấy ổn định hơn em. Và em con đang nuôi con riêng nữa nên em không có quyền nuôi con nữa. Anhấy buộc em ra hầu tòa. Tụi em chỉ làm đám cưới, chưa đăng ký kết hôn và khai sinh của bé chỉ có tên mẹ, không có tên bố. Anh ấy xúc phạm em rất nhiều. Em phải làm sao đây? (Minh Thùy - Hà Nội)
Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Do vậy, việc giải quyết ai có quyền nuôi con trong trường hợp này sẽ tuân theo quy định tại Chương V - Quan hệ giữa cha mẹ và con của Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Cụ thể: "Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con".
"Điều 82 quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó".
"Điều 83 quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn1. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con".
Như vậy, trong tình huống này, xét thấy, đứa bé dưới 36 tháng tuổi nên trước tiênTòa án sẽ xem xét điều kiện của chị.Người chồng nhận định rằng chị không đủ điều kiện kinh tế nuôi con, nhưng anh ấy phải đưa ra được chứng cứ trước Tòa án đểchứng minh cho nhận định này, vậy nên nếu chị có căn cứ chứng minh được rằng mình đủ điều kiện kinh tế, đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị vẫn sẽ được quyền nuôi con. Còn người chồng vẫn có quyền cũng như nghĩa vụ theo pháp luật quy định.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận