Công ty Luật TNHH Everest tư vấn trường hợp ly hôn có thể tranh chấp tài sản và quyền nuôi con hay không.
Hỏi: Em kết hôn năm 2005, hiện tại đã có 2 cháu trai, 1 cháu sinh năm 2006, tính đến nay đã hơn 9 tuổi và một cháu sinh 2009. Hiện tại vợ chồng em không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa. Vậy xin hỏi khi ly hôn em có được quyền nuôi cả hai cháu không. Về kinh tế, hai vợ chồng em ở nhà kinh doanh nhà nghỉ, kinh tế chung chứ không phân định thu nhập riêng, nhưng hiện tại mọi đất đai hai vợ chồng mua anh ta đều để người đứng tên là mẹ anh ta. Trên mảnh đất vợ chồng em đang sinh sống và kinh doanh nhà nghỉ cũng đứng tên mẹ anh ta nhưng nhà nghỉ đó là do vợ chồng em xây dựng (trị giá khoảng 20 tỉ). Vậy em xin hỏi nếu em ly hôn em có được chia tài sản không? Trong trường hợp em không tranh chấp tài sản (tức là em chấp nhận ra đi tay trắng) em có thể tranh chấp quyền nuôi con được không? (Ngọc Lan - Hà Nội)
-Thứ nhất, về quyền ly hôn đơn phương
Điều 51Luật hôn nhân và gia đình năm 2014quy định quyền yêu cầu giải quyết ly hôn như sau:
“1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”.
Theo quy định trên thì vợ hoặc chồng có quyền đơn phương yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. Trừ trường hợp người vợ đang có thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng thì chồng không được quyền yêu cầu giải quyết ly hôn.
Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy địnhly hôn theo yêu cầu một bênnhư sau:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu cócăn cứvề việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được".
Theo thông tin chị cung cấp, chị có mong muốn xin ly hôn thì chị có thể làm đơn ly hôn đơn phương yêu cầu tòa giải quyết. Trong đơn chị phải chứng minh được căn cứ sau:
+ việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình;
+ vợ, chồng có hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lầm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không không đạt được.
Như vậy, nếu chị đưa ra căn cứ chứng minh tình trạng hôn nhân trầm trọng, không thể kéo dài , mục đích hôn nhân không đạt được và tòa án tiến hành hòa giải không thành thì tòa án sẽ giải quyết yêu cầu này của chị. Trường hợp này, chị có thể đưa căn cứ người chồng hay rượu chè rồi có những hành vi bạo lực gia đình, có hành vi ngoại tình để chứng minh cho tình trạng hôn nhân đang lâm vào trầm trọng và không có hạnh phúc để yêu cầu Tòa giải quyết cho ly hôn.
Thủ tục đơn phương ly hôn :
Hồ sơ gồm những giấy tờ sau:
+Đơn xin ly hôn đơn phương
+ Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ( bản chính).
+ Chứng minh nhân dân của chị ( bản sao có chứng thực )
+ Giấy khai sinh của các con ( bản sao có chứng thực)
+ Sổ hộ khẩu ( bản sao có chứng thực)
+ Tài sản chung của gia đình mà anh chị có đóng góp( bản sao chứng thực)
Nơi nộp hồ sơ: Tòa án nhân dân quận/huyện nơi bị đơn có hộ khẩu thường trú hoặc cư trú.
-Thứ hai, về chia tài sản chung khi ly hôn:
Tại Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về Tài sản chung của vợ chồng như sau:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”.
Mặt khác, tại Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2014 có quy định:
“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đấtlà chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.
Theo thông tin chị cung cấp, hiện nay mẹ chồng đang là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà gắn liền trên đất. Vì vậy, theo quy định trên thì mẹ chồng là chủ sở hữu hợp pháp phần diện tích đất mà mẹ chồng của chị đang đứng tên, và chị không có gì để chứng minh ngôi nhà nghỉ nằm trên phần diện tích đất đó là của hai vợ chồng chị nên mẹ chồng của chị có quyền năng của người sử dụng đất như: Chiếm hữu, sử dụng và định đoạt.
Do vậy, khi ly hôn, Tòa án chỉ giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, Tại Điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về việc Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình như sau:
“1. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định về Nguyên tắc giải quyết tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn”.
Như vậy, theo quy định trên thì trong trường hợp này, chị sẽ được chia một phần trong phần tài sản mà mẹ chồng đang đứng tên. Và chị cần phải chứng minh công sức đóng góp của mình vào khối tài sản chung đó.
-Thứ ba, việc giành quyền trực tiếp nuôi con
Căn cứ Điều 81Luật Hôn nhân và gia đình 2014quy định về việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khily hônnhư sau:
“ 1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
Theo quy định trên, việc trực tiếp nuôi con sẽ có thể do thỏa thuận của hai bên vợ chồng, nếu không thỏa thuận được thì tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con trên cơ sở đảm bảo quyền và lợi ích tốt nhất cho con.
Trường hợp này, nếu như chị và chồng không thỏa thuận được về việc trực tiếp nuôi 2 con thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án xem xét dựa trên các cơ sở các quyền lợi của con về mọi mặt như kinh tế, giáo dục, tình cảm,… sẽ tốt cho con hơn khi sống với ai. Đối với đứa con thứ nhất sinh năm 2006( trên 7 tuổi) tòa sẽ xem xét nguyện vọng của con.
Vì vậy, nếu như chị muốn giành quyền nuôi cả hai con thì chị phải chứng minh với Tòa rằng mình có đủ các điều kiện để chăm sóc con một cách tốt nhất như:
+ Thu nhập hàng tháng (Có đảm bảo để nuôi con hay không);
+ Chỗ ở ổn định;
+ Môi trường sống (Có đảm bảo cho sự phát triển tốt nhất về thể chất lẫn tinh thần cho con không?);
+ Thời gian làm việc (Có thời gian để chăm sóc con hay không?);
+ Sự quan tâm, chăm sóc của cha/mẹ giành cho con?
Ngoài những cơ sở trên, Tòa án con xem xét nguyện vọng của đứa con sinh năm 2006 và đưa ra quyết định để cho ai trực tiếp nuôi con.
- Thứ tư, việc cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn
Tại Khoản 1 Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về Mức cấp dưỡng:
“Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”.
Hiện nay, pháp luật không có quy định cụ thể mức cấp dưỡng cụ thể, mức cấp dưỡng phụ thuộc vào thu nhập thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một cách hợp lý.
Khuyến nghị:
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận