-->

Khi bán đất có cần xác nhận tình trạng hôn nhân hay không?

Trường hợp công dân Việt Nam không có nơi thường trú, nhưng có đăng ký tạm trú theo quy định của pháp luật về cư trú thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi người đó đăng ký tạm trú cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.

Hỏi: Ba tôi đã mất từ năm 2004 ở Hóc Môn-TP Hồ Chí Minh, năm 2006 mẹ tôi đã xin giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân để làm sổ hộ khẩu. Quê gốc nhà tôi ở Phú Thọ nên mẹ đã cắt khẩu để làm hộ khẩu ở Hóc Môn. Rồi năm 2013 mẹ tôi có mua 01 mảnh đất ở Đồng Nai.Tháng 03/2016 mẹ tôi muốn bán miếng đất đó, nhưng thủ tục bán đất lại yêu cầu mẹ tôi xác nhận tình trạng hôn nhân, ra UBND xã thì họ lại yêu cầu mẹ tôi phải ra tận quê gốc để xác nhận tình trạng hôn nhân ngoài đó, rồi vào đây họ mới cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho mẹ tôi. Giờ gia đình tôi đã cắt khẩu vào đây cả chục năm rồi, mà mẹ tôi mua miếng đất sau khi ba tôi mất mà. Sao rắc rối quá vậy ah? Tôi cứ nghĩ đưa lại giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cũ của mẹ tôi (vì giấy đã 10 năm rồi, đã quá hạn), rồi xin lại giấy mới thôi, sao lại còn yêu cầu ra tận ngoài bắc chứng nhậnrồi vô lại đây mới cấp giấy? (Thái Hòa - Hà Nội)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo quy định tại điều 40 luật công chứng như sau:Điều 40. Công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn:"1. Hồ sơ yêu cầu công chứng được lập thành một bộ, gồm các giấy tờ sau đây:a) Phiếu yêu cầu công chứng, trong đó có thông tin về họ tên, địa chỉ người yêu cầu công chứng, nội dung cần công chứng, danh mục giấy tờ gửi kèm theo; tên tổ chức hành nghề công chứng, họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng, thời điểm tiếp nhận hồ sơ;b) Dự thảo hợp đồng, giao dịch;c) Bản sao giấy tờ tùy thân của người yêu cầu công chứng;d) Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản đó;đ) Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có".

Như vậy, ngoài những giấy tờ về chủ thể(chứng minh nhân dân của hai bên); giấy tờ đất thì cơ quan công chứng còn có thể yêu cầu các bên xuất trình những giấy tờ cần thiết để đảm bảo cho việc chứng nhận hợp đồng chính xác và hợp pháp.

Trường hợp của bạn, công chứng viên yêu cầu chủ sở hữu đất phải xuất trình giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của chủ đất tại thời điểm bạn bán đất là đúng quy định của pháp luật. Yêu cầu này nhằm mục đích xác định thửa đất là tài sản riêng hay tài sản chung của người đó. Vì, nếu không yêu cầu bạn xin giấy xác nhận tình trạng hôn nhân thì không xác định được đó là tài sản riêng của bạn hay tài sản chung của vợ chồng.

Theo quy định tại khoản 1 điều 21 nghị định 123/2015/NĐ-CP như sau:
Điều 21: Thẩm quyền cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân

1.Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của công dân Việt Nam thực hiện việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.

Trường hợp công dân Việt Nam không có nơi thường trú, nhưng có đăng ký tạm trú theo quy định của pháp luật về cư trú thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi người đó đăng ký tạm trú cấp Giấy xác nhận tìnhtrạng hôn nhân.

Như vậy, mẹ bạn đã tách khẩu từ năm 2006 và đã làm hộ khẩu thường trú ở Hóc Môn nên thẩm quyền cấp giấy xác nhận kết hôn sẽ do UBND xã Hóc Môn cấp và mẹ bạn không cần phải về tận Phú Thọ để xin giấy xác nhận kết hôn.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.