-->

Khái niệm và đặc điểm của quy chế pháp lí hành chính của công dân

Quốc tịch là một phạm trù chính trị - pháp lí thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và các cá nhân đồng thời quốc tịch còn xác định một cá nhân là công dân Việt Nam, trên cơ sở đó làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lí hành chính giữa Nhà nước.

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Điều 49 Hiến pháp năm 1992 quy định: ''Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam". Điều 1 Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều cố quyền có quốc tịch... Mọi thành viên của các dân tộc đều bình đẳng về quyền cố quốc tịch Việt Nam". Điều đó khẳng định công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Quốc tịch là một phạm trù chính trị - pháp lí thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và các cá nhân đồng thời quốc tịch còn xác định một cá nhân là công dân Việt Nam, trên cơ sở đó làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lí hành chính giữa Nhà nước ta và công dân sống ở trong nưóc cũng như nước ngoài.

Với tư cách là một phạm trù chính trị pháp lí, quốc tịch gắn liền với vấn đề độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Những người mang quốc tịch Việt Nam được hưởng những quyền, lợi ích hợp pháp mà nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam dành cho công dân của mình. Đối với một nhà nước có chủ quyền, việc xác định một cá nhân nào đó có quốc tịch của nước mình còn có một ý nghĩa đạc biệt quan trọng trong việc bảo vệ công dán của mình ở nước ngoài, thể hiện mối quan hệ chặt chõ giữa còng dân với nhà nước không những chỉ trong nước mà còn ở ngoài nước.

Các cơ quan nhà nước ở trong nước, cơ quan ngoại giao, lãnh sự ở nưỏc ngoài có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người Việt Nam ở nước ngoài, khi quyền, lợi ích của công dân Việt Nam đang cư trú ở một nước nào đó bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại thì các cơ quan nhà nước có thấm quyền, đậc biệt là cơ quan ngoại giao, lãnh sự dựa trên cơ sử pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sờ tại, pháp luật quốc tế để bảo vệ công dán của mình.

Quy chế pháp lí hành chính của công dân là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lí hành chính nhà nước.

Quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lí hành chính nhà nước bắt nguồn từ Hiến pháp và chỉ có thể trở thành hiện thực khi được cụ thể hóa thành các quyền, nghĩa vụ cụ thể trong các vãn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.

Thông qua việc thực hiên quyền và nghĩa vụ, công dân tham gia trực liếp vào hoạt động quản lí nhà nước. Nhà nước tạo mọi điều kiện cần thiết để thu hút nhân dân tham gia đòng đảo vào quản lí nhà nước, nâng cao tính tích cực chính trị của mỗi cá nhân công dân.

Quy chế pháp lí hành chính của công dân có những đậc điểm sau đây:

- Mọi công dân Việt Nam được hưởng đầy đủ các quyền về tự do cá nhân, về chính trị. kinh tế, văn hóa, xã hội...

- Quy chế pháp lí hành chính của công dân được xác lập trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân do Hiến pháp quy định. Chỉ có những cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có thể hạn chế quyền và nghĩa vụ của công dân.

- Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ vãn hóa, nghề nghiệp.

- Quyền và nghĩa vụ là hai mặt không thể tách rời. Công dân được hưởng quyền đồng thời phải làm nghĩa vụ đối với Nhà nước. Điều đó thổ hiện mối liên hệ về trách nhiệm pháp lí giữa Nhà nước và công dân.

- Nhà nước tạo điều kiện cho nhu cầu chính đáng của cá nhân được thỏa mãn làm cho khả năng của công dân về trí tuệ, vật chất, tinh thần được phát huy đến mức cao nhất.

- Nhà nước chỉ truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với công dân khi có hành vi vi phạm do pháp luật quy định và chỉ trong giới hạn mà pháp luật cho phép.

- Nhà nước không ngừng hoàn thiện quy chế pháp lí hành chính của cống dân, đảm bảo cho công dân tham gia tích cực vào quản lí nhà nước.

Tốm lại, quy chế pháp lí hành chính của cống dân là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lí hành chính nhà nước được quy định trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và được đảm bảo thực hiện trong thực tế.

Khi tham gia vào quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật hành chính nói riêng, công dân phải có năng lực chủ thể (năng lực pháp luật hành chính và nãng lực hành vi hành chính).

Tất cả mọi công dân Việt Nam khống phân biệt giới tính, tôn giáo, nghề nghiệp v.v. đều bình đẳng với nhau về nàng lực pháp luật hành chính. Điều này xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng của công dân trước pháp luật. Nhà nước đảm bảo cho công dán có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong quản lí hành chính nhà nước. Chỉ có Nhà nước mới có quyền thay đổi hoặc hạn chế năng lực pháp luật hành chính của công dân bàng cách ban hành ra những văn bản pháp luật tương ứng.

Năng lực hành vi là yếu tố biến động nhất trong cấu thành năng lực chủ thể, theo từng lĩnh vực quản lí hành chính cụ thể mà Nhà nước quy định thời điểm xuất hiộn nãng lực hành vi hành chính.
Ví dụ:

- Công dân từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hành chính về những hành vi vi phạm do cố ý; từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi hành vi vi phạm.

- Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lén có quyền ứng cử.

- Điều kiện tuyển dụng công chức: công dân Việt Nam từ 18 tuổi đến 40 tuổi đối với nam; từ 18 tuổi đến 35 tuổi đối với nữ.

Điều kiện đổ công nhận năng lực hành vi của công dân là độ tuổi và tiêu chuẩn lí trí (khả năng nhận thức, điều khiển hành vi), dĩ nhiên đây không phải là điều kiện duy nhất. Cá nhân công dân muốn tham gia vào quan hộ pháp luật hành chính phải thoả mãn những điều kiện cụ thể về thâm niên công tác, trình độ văn hóa, chuyên môn, sức khỏe v.v. do Nhà nước đặt ra. Ví dụ: Công dân muốn tham gia thi tuyển vào ngạch chuyên viên pháp lí của Bộ tư pháp phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

- Là công dân Việt Nam không quá 40 tuổi, nếu là sĩ quan lực lượng vũ trang, viên chức trong doanh nghiệp nhà nước tuổi không quá 45 tuổi.

- Tốt nghiệp đại học luật hệ chính quy.

- Trình độ tin học văn phòng cơ bản (trình độ A), ngoại ngữ trình độ B.

- Sức khoẻ tốt.

Những người mắc bệnh tâm thần hoặc những bệnh khác làm mất khả nàng nhận thức hoặc điều khiển hành vi thì được coi là không có năng lực hành vi.

Năng lực pháp lí hành chính và năng lực hành vi hành chính tạo thành năng lực chủ thể của công dân. Năng lực chủ thể của công dân là hình thức thể hiện địa vị pháp lí hành chính của công dân trong quản lí hành chính nhà nước. Thông qua năng lực chủ thể công dân có thể tham gia tích cực vào quan hệ pháp luật hành chính để thực hiện quyền và làm nghĩa vụ của mình đôi với Nhà nước.

Tổ bộ môn Luật Hành chính - Khoa Luật Trường Đại học Hòa Bình, tổng hợp
  1. Nội dung trong bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (chú thích rõ trong bài viết).
  2. Bài viết được sử dụng không nhằm mục đích thương mại, chỉ nhằm mục đích giảng dạy, tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật, trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa Khoa Luật Kinh tế - Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, quý Vị vui lòng liên hệ với các luật sư, luật gia của Công ty Luật TNHH Everest và Khoa Luật Kinh tế - Đại học Hòa Bình, qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], hoặc trực tiếp tại địa chỉ Khoa Luật kinh tế Đại học Hòa Bình, số 8 phố Bùi Xuân Phái, Nam Từ Liêm, Hà Nội.