-->

Hợp đồng chuyển nhượng đất vô hiệu, xử lý thế nào?

Trong trường hợp của bạn do đã hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu nên công ty bạn không có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

Hỏi:Năm 2005 vợ chồng ông Sáu thỏa thuận chuyển nhượng cho Công ty chúng tôi một lô đất tạitỉnh Đắc Nông với diện tích ước tính là 40.000 m2, giá trị chuyển nhượng lô đất là 56.000.000đ (Năm mươi sáu triệu đồng) để Công ty chúng tôi sử dụng cho Dự án Nhà máy gạch.Tháng 3/2015 vợ chồng ông Sáu đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng lô đất nói trên với diện tích đất là 2,73 ha nhưng không làm thủ tục chuyển nhượng, sang tên lô đất nói trên cho Công ty chúng tôi theo Văn bản thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký kết ngày 22/4/2013. Chúng tôi nhiều lần yêu cầu vợ chồng ông Sáu thực hiện nghĩa vụ đã cam kết nhưng vợ chồng ông Sáu lánh mặt, không giải quyết yêu cầu chính đáng của Công ty chúng tôi. Xin hỏi,chúng tôi có đủ căn cứ khởi kiện ông Sáu ra tòa để đòi lại quyền lợi không? (Vũ Hải Hà - Hà Nội).

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Hoài Thương - Tổ tư vấn pháp luật hợp đồng của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Thời điểm công ty bạn giao kết hợp động chuyển nhượng quyền sử dụng đất là từ 2005, đây là thời điểm Luật đất đai 2003 đang có hiệu lực thi hành. Theo đó, Điều 126 Luật đất đai 2003 có quy định “Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân phải có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất hoặc chứng nhận của công chứng nhà nước.” Như vậy, hình thức của hợp đồng điều kiện để hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có giá trị pháp lý.

Điều 134 Bộ luật Dân sự 2005, quy định về Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức như sau:

“Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.”

Căn cứ theo quy định trên thì giao dịch dân sự công ty bạn đã giao kết sẽ bị vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức.

Điều 136 .Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

“1. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập…”

Tuy nhiên, do giao dịch dân sự được giao kết từ năm 2005, mà thời hiệu pháp luật cho phép chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự do không tuân thủ quy định về hình thức là 2 năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.

Bởi vậy, trong trường hợp của bạn do đã hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu nên công ty bạn không có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.

Tuy nhiên, nếu 2 bên có thể tự thỏa thuận được thì vẫn có thể giải quyết giao dịch này theo hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Đó là các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận. Do vậy, không có căn cứ để công ty bạn yêu cầu gia đình ông Sáu hoàn trả số tiền khoảng 300 triệu đồng (bao gồm tỷ lệ trượt giá tăng lên). Nên ông Sáu sẽ chỉ có nghĩa vụ hoàn trả cho công ty bạn những khoản tiền mà ông sáu đã nhận (có bao gồm cả số tiền dùng để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà công ty bạn trả). Trong trường hợp công ty bạn chứng minh được việc do ông Sáu không làm thủ tục sang tên thửa đất kịp thời cho công ty bạn dẫn đến thiệt hại xảy ra, thì công ty bạn sẽ có căn cứ để yêu cầu ông Sáu bồi thường thiệt hại.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hợp đồng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.