Thời gian lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh, NSDLĐ vẫn phải thực hiện trích và đóng đúng tỷ lệ Luật định (21% vào quỹ BHXH, BHYT); còn NLĐ bị trích (9,5% vào quỹ BHXH, BHYT)
Hỏi: Em đang làm tại công ty cổ phần A, em đã kí hợp đồng không thời hạn. Em sinh con ngày 30/10/2015 và khi được 4 tháng (tức ngày 04/03/2016) em đi làm trở lại nhưng em được công ty báo là em không được nghỉ dưỡng sức vì lí do là do em xin đi làm sớm (khi đi làm em có giấy khám sức khỏe chứng nhận đủ sức khỏe để làm việc). Vậy xin hỏi công ty làm vậy có đúng không? Công ty còn nói em phải tự đóng BHXH cho những tháng em đi làm sớm và họ nói đó là quy định mới có của năm 2016. Em xin hỏi có đúng vậy không? Quy định pháp luật thế nào? (Hà Phượng - Hà Đông)
Điều 40 Luật BHXH 2014 quy định về lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con:
"1. Lao động nữ có thể đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con quy định tại khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 của Luật này khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Sau khi đã nghỉ hưởng chế độ ít nhất được 04 tháng;
b) Phải báo trước và được người sử dụng lao động đồng ý.
2. Ngoài tiền lương của những ngày làm việc, lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi hết thời hạn quy định tại khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 của Luật này".
Điều 41 Luật bảo hiểm xã hội 2014 quy định về dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản:
"1. Lao động nữ ngaysau thời gian hưởng chế độ thai sảnquy định tại Điều 33, khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 của Luật này, trong khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việcmà sức khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 05 ngày đến 10 ngày.
Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe bao gồm cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Trường hợp có thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ cuối năm trước chuyển tiếp sang đầu năm sau thì thời gian nghỉ đó được tính cho năm trước.
2. Số ngày nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe quy định tại khoản 1 Điều này do người sử dụng lao động và Ban Chấp hành công đoàn cơ sở quyết định, trường hợp đơn vị sử dụng lao động chưa thành lập công đoàn cơ sở thì do người sử dụng lao động quyết định. Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe được quy định như sau:
Điều 12 Luật bảo hiểm xã hội 2014 quy định về mức hưởng chế độ thai sản:
"...
2. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội quy định tại khoản 2 Điều 39 của Luật bảo hiểm xã hội được hướng dẫn như sau:
c) Trường hợp lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con theo quy định thìthời gian hưởng chế độ thai sảntừ khi nghỉ việc đến khi đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội, kể từ thời điểm đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con thì lao động nữ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi hết thời hạn quy định tại khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 của Luật bảo hiểm xã hội nhưng người lao động và người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế".
Chiểu theo quy định nêu trên, đơn vị không đồng ý cho chị nghỉ, hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hành vi yêu cầu chị phải đóng toàn bộ khoản tiền BHXH, BHYT trong thời gian đi làm sớm là trái quy định.
Bởi, mặc dù thời gian lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 12 Luật BHXH 2014 phải đóng BHXH, BHYT nhưng trách nhiệm đó vẫn thuộc về người sử dụng lao động và người lao động. Tức, trường hợp này NSDLĐ vẫn phải thực hiện trích và đóng đúng tỷ lệ Luật định (21% vào quỹ BHXH, BHYT); còn NLĐ bị trích (9,5% vào quỹ BHXH, BHYT).
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận