So với công ty trách nhiệm hữu hạn được quyền phát hành trái phiếu và công ty cổ phần được phát hành chứng khoán để huy động vốn thì rõ ràng, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh khó khăn hơn khi tìm kiếm các nguồn tài chính cho hoạt động kinh doanh.
Với chủ trương đổi mới kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kể hoạch hóa tập trung, bao cẩp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 thì kinh tế tư nhân lần đầu tiên được thừa nhận, khuyến khích phát triển ở Việt Nam.
Chế định pháp luật doanh nghiệp về doanh nghiệp tư nhân điều chỉnh qua nhiều thời kỳ. Tại Luật Doanh nghiệp năm 2014, chế định này có một số những điểm mới cần lưu ý:
Doanh nghiệp tư nhân: "1- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.2- Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.3- Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty hợp danh.4- Doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần". (Điều 183)
Thứ nhất, quy định của pháp luật về dấu hiệu nhận diện doanh nghiệp tư nhân.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 không định nghĩa về doanh nghiệp tư nhân mà chỉ quy định về các dấu hiệu nhận diện doanh nghiệp tư nhân tại Điều 183 như sau:.
Doanh nghiệp tư nhân là một loại hình doanh nghiệp nên giống như những doanh nghiệp kinh doanh khác, doanh nghiệp tư nhân là tổ chức có tên riêng được nhà nước thừa nhận thông qua việc nhà nước cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; mục đích của doanh nghiệp tư nhân là thường xuyên, liên tục thực hiện hoạt động kinh doanh tìm kiểm lợi nhuận. Bên cạnh những đặc điếm chung của một doanh nghiệp kinh doanh thì doanh nghiệp tư nhân còn có những đặc điểm riêng sau:
- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ sở hữu:
Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ sở hữu. Cá nhân chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân có thể là cá nhân Việt Nam hoặc cá nhân nước ngoài trừ những cá nhân không được thành lập, quản lý doanh nghiệp quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Hạn chế quyền thành lập doanh nghiệp tư nhân của một số cá nhân tại khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014 nhàm đảm bảo sự chuyên tâm trong công việc Nhà nước giao phó hoặc ngăn ngừa sự trục lợi đối với một số vị trí quản lý trong các cơ quan nhà nước hoặc gìn giữ văn hóa, đạo đức kinh doanh hoặc hạn chế nguy cơ rủi ro cho nền kinh tế - xã hội khi nhà đầu tư không có khả năng quản lý doanh nghiệp...
Đặc điểm doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ sở hữu sẽ phân biệt doanh nghiệp tư nhân với những loại hình doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhiều chủ như công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên. Đặc điểm đó cũng phân biệt doanh nghiệp tư nhân với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Cùng thuộc sở hữu của một chủ nhưng chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ do một cá nhân làm chủ sở hữu còn công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một tổ chức có tư cách pháp nhân hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu.
Với tính chất là doanh nghiệp thuộc sở hữu của một chủ nên toàn bộ vốn để thành lập và tạo lập cơ sở vật chất cho doanh nghiệp tư nhân hoạt động kinh doanh chỉ do một cá nhân đầu tư. Tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp, vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân do chủ doanh nghiệp tự đăng ký. Như vậy, khác với các loại hình công ty là những tổ chức kinh tế có tài sản riêng thì doanh nghiệp tư nhân không có tài sản riêng mà tài sản của doanh nghiệp tư nhân vẫn là tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp tư nhân.
Từ tiền đề đó, trên nền tảng lý luận chung về quyền năng của chủ sở hữu đối với vật và tài sản thuộc quyền sở hữu của mình thì chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành doanh nghiệp tư nhân; có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp tư nhân sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ tài chính với nhà nước, với bạn hàng của doanh nghiệp tư nhân; có quyền quyết định thay đổi số phận pháp lý của doanh nghiệp tư nhân như bán doanh nghiệp, cho thuê doanh nghiệp, giải thể doanh nghiệp..
Sở dĩ chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân vì chủ doanh nghiệp tư nhân không phải chia sẻ quyền năng “định đoạt, sử dụng” doanh nghiệp tư nhân với bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Toàn bộ các quyền năng trong khuôn khổ quy định của pháp luật đối với doanh nghiệp tư nhân chỉ do chủ doanh nghiệp tư nhân quyết định vì chủ doanh nghiệp tư nhân là cá nhân duy nhất đầu tư toàn bộ vốn để hình thành doanh nghiệp tư nhân, vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân có bản chất tương tự như vổn điều lệ của công ty. Quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân đối với doanh nghiệp giống như quyền của chủ sở hữu (các thành viên, cố đông) đổi với công ty.
- Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân:
Theo Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: (i) Được thành lập hợp pháp theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; (ii) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này; (iii) Có tài sản dộc lập với cá nhân, tố chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; (iv) Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Như phân tích tại đặc điểm thứ nhất khi nhận diện doanh nghiệp tư nhân thì doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân đầu tư vốn và làm chủ. Tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp nên doanh nghiệp tư nhân không có tài sản độc lập. Do vậy, doanh nghiệp tư nhân không đủ điều kiện để được công nhận là pháp nhân.
- Chủ doanh nghiệp tư nhãn chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:
Trách nhiệin tài sản trong kinh doanh thường được đặt ra đổi với doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp. Trách nhiệm tài sản trong kinh doanh của doanh nghiệp đá chỉ về khả năng chịu trách nhiệm tài sản giữa doanh nghiệp với các khách hàng, chủ nợ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm tài sản bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp là trách nhiệm của chủ sở hữu doanh nghiệp đối với doanh nghiệp do mình góp vốn đầu tư.
Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân, không có tài sản riêng nên trách nhiệm tài sản đối với đối tác, khách hàng, chủ nợ, những người có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm. Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm tài sản vô hạn trong kinh doanh có nghĩa là chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp bằng toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của mình bao gồm cả tài sản chủ doanh nghiệp tư nhân đã đầu tư vào doanh nghiệp và tài sản mà chủ doanh nghiệp tư nhân không đầu tư vào doanh nghiệp.
Cụ thể hơn có thể hiểu là chủ doanh nghiệp tư nhân không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân trong phạm vi số vốn đầu tư đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh mà còn phái chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu cùa mình không đầu tư vào doanh nghiệp trong trường hợp sổ vốn đầu tư đã đăng ký không đủ để thanh toán các khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Như vậy, trách nhiệm vô hạn trong kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân là một loại trách nhiệm tài sản không chỉ giới hạn trong phạm vi số vốn chủ sở hữu đầu tư vào doanh nghiệp. Trách nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân được xác định từ thời điểm doanh nghiệp tư nhân được cẩp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và thời điểm bị áp dụng trách nhiệm vô hạn là thời điểm doanh nghiệp tư nhân bị tuyên bổ phá sản. Các văn bản pháp luật doanh nghiệp và pháp luật phá sản đã có sự thống nhất khi quy định về trách nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, Luật Phá sản đã mở ra hướng “mềm dẻo” hơn về trách nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân khi doanh nghiệp tư nhân bị phá sản. Theo đó, khoản 1 Điều 110 Luật Phá sản năm 2004 quy định: Quyểt định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản quy định tại các Điều 105 106 và 107 của Luật này không miễn trừ nghĩa vụ về tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên họp danh của công ty hợp danh đối với chủ nợ chưa được thanh toán nợ, trừ trường hợp người tham gia thủ tục phá sản có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Thứ hai, quy định về trách nhiệm vô hạn trong kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân.
Trách nhiệm vô hạn không phân tán được rủi ro trong kinh doanh cho cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân. Do không có tư cách pháp nhân nên mức độ rủi ro của chủ doanh nghiệp tư nhân cao. Chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình mà không có sự phân tán rủi ro cùng những chủ thể khác như những doanh nghiệp có tư cách pháp nhân.
Tuy nhiên, chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân lại tạo sự “an toàn” hơn cho chủ nợ vì chủ nợ cỏ khả năng đòi được nợ không chỉ giới hạn trong số vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân vào doanh nghiệp đó. Có thể từ ý tưởng bảo vệ lợi ích tài sản cho chủ nợ trong mối quan hệ với doanh nghiệp tư nhân mà Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã quy định: Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty hợp danh.
Bàn luận về trách nhiệm tài sản vô hạn trong kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân có một số điểm lưu ý sau:
- Xác định khối tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân khi bị doanh nghiệp tư nhân bị phả sản:
Ngoài những tài sản mà chủ doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào doanh nghiệp, khối tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân còn bao gồm cả những tài sản không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân có tài sản thuộc sở hữu chung thì phần tài sản sở hữu chung của chủ doanh nghiệp tư nhân được chia theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan. Việc kê biên tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân được thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự và không kê biên những tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân như: số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của chủ doanh nghiệp tư nhân và gia đình trong thời gian chưa có thu nhập thu hoạch mới; số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của chủ doanh nghiệp tư nhân và gia đình; đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương; vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng để chăm sóc người ốm... Quy định về một số tài sán không kê biên của chủ doanh nghiệp tư nhân khi doanh nghiệp tư nhân bị phá sản không mâu thuẫn với trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân bởi quy định của pháp luật cũng phải được xây dựng trên nền tảng đạo đức, triết lý nhân văn của dân tộc và được quy định thống nhất trong các quy định của pháp luật.
- Cần phải quy định rõ về cách thức giải quyết trách nhiệm tài sản khi chủ doanh nghiệp tư nhăn đã kết hôn:
Điều 36 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Tài sản chung được đưa vào kinh doanh thì trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này cỏ quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đỏ. Thỏa thuận này phải lập thành văn bàn. Quy định của Luật Hôn nhân và gia đình mới chỉ dừng lại ở những quy định khi đưa tài sản chung vào kinh doanh thì cần sự thống nhất bằng văn bản của hai vợ chồng. Tuy nhiên, pháp luật về hôn nhân gia đình và pháp luật về doanh nghiệp cần có sự liên kết, hướng dẫn rõ một vài nội dung sau:
- Trường họp vợ hoặc chồng đưa tài sản chung vào thành lập doanh nghiệp tư nhân mà chưa có sự đồng ý của người còn lại thì việc giải quyết trách nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân khi doanh nghiệp đó bị phá sản như thế nào?
-Vợ hoặc chồng của chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ chịu trách nhiệm tài sán như thế nào khi họ đã thống nhất bằng văn bản cho vợ/chồng của mình dùng tài sản chung để thành lập doanh nghiệp tư nhân?
Do chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận nên sau khi doanh nghiệp đã thực hiện các nghĩa vụ tài chính thì chủ doanh nghiệp tư nhân có thể sử dụng lợi nhuận đó để chi tiêu cho nhu cầu của gia đình họ. Vậy tài sản đó nếu được xác định là tài sản chung của vợ chồng chủ doanh nghiệp tư nhân thì chủ nợ có quyền đòi một nửa số tài sản chung hay toàn bộ số tài sản chung của vợ chồng chủ doanh nghiệp tư nhân được tạo lập từ lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp tư nhân?
- Doanh nghiệp tư nhãn không được phát hành bất chứng khoán:
Quy định trên của pháp luật đã hạn chế quyền huy động vốn để đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân. Hiện nay, ngoài doanh nghiệp tư nhân còn có công ty hợp danh là hai loại hình doanh nghiệp không có quyền phát hành chứng khoán để huy động vốn. Điều đó có nghĩa là nếu các doanh nghiệp này muốn đầu tư mới, phát triển, mở rộng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp mình thì chỉ giới hạn huy động vốn bàng cách chủ sở hữu doanh nghiệp đầu tư thêm vốn vào doanh nghiệp, vay tài chính hoặc có thể có những khoản thu hút vốn đầu tư khác từ việc được tặng cho, thừa kế tài sản... So với công ty trách nhiệm hữu hạn được quyền phát hành trái phiếu và công ty cổ phần được phát hành chứng khoán để huy động vốn thì rõ ràng, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh khó khăn hơn khi tìm kiếm các nguồn tài chính cho hoạt động kinh doanh. Bên cạnh quy định doanh nghiệp tư nhân không được phát hành chứng khoán thì Luật Doanh nghiệp năm 2014 còn xác định rố doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cố phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Bài viết được thực hiện bởi: Luật sư Nguyễn Duy Hội - Trưởng chi nhánh Hà Nội của Công ty Luật TNHH Everest
Xem thêm:
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết trong lĩnh vực pháp luật doanh nghiệp được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected].
Bình luận