Định đoạt tài sản chung của Vợ Chồng như thế nào?

Năm 2004 chồng tôi có bán một mảnh đất ruộng 4,5 mét trị giá 44 000.000 đồng tôi có phản đối không cho bán vơi chồng tôi và chủ mua đất nhưng không rõ sao chồng tôi và chủ mua đất lại thỏa thuận được và đã ký kết giấy mua bán.

Hỏi: Năm 2004 chồng tôi có bán một mảnh đất ruộng 4,5 mét trị giá 44 000.000 đồng tôi có phản đối không cho bán vơi chồng tôi và chủ mua đất nhưng không rõ sao chồng tôi và chủ mua đất lại thỏa thuận được và đã ký kết giấy mua bán.Trong giấy mua bán viết tay có chồng tôi,bạn chồng tôi và chủ mua đất cùng một người làm chứng chưa đủ 18 tuổi ký nhận ngoài ra không có ngươì thân nào trong gia dình tôi được ký nhận trên giấy mua bán. Trong giấy CN QSDĐ cũ cấp từ năm 1993 và CN QSDĐ mới cấp lại năm 2007 đến nay vẫn mang tên 2 vợ chồng tôi. Nhưng hiện nay mảnh đất trên đang làm thủ tục bán. Vậy luật sư cho tôi được hỏi giấy mua bán kể trên có giá trị đối với bên mua hay không? Tôi có quyền đòi lại mảnh đất đó không? Và tôi phải làm gì để đòi lại quyền lợi mình ghi trong CN QSDĐ nói trên? (Hoàng Dương - Sơn La).




>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Căn cứ theo Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

" Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân trừ trường hợp được quy định tại Khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Dó đó mảnh đất này được coi là tài sản chung của vợ chồng bạn".

Căn cứ theo Khoản 1 Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

"Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thù giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Trong trường hợp này, sổ đỏ miếng đất đó mang tên vợ chồng bạn vì thế đã phát sinh quyền lợi của bạn đối với mảnh đất này".

Căn cứ theo Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

"Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây: Bất động sản; Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình".

Vì thế miếng đất này là tài sản chung của vợ chồng bạn nên việc định đoạt không thể đơn phương do chồng bạn thực hiện được mà phải có sự thỏa thuận giữa hai vợ chồng và thỏa thuận này phải lập thành văn bản theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp này, chồng bạn đã đơn phương định đoạt tài sản chung của vợ chồng vì thế hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chồng bạn và bên kia là hoàn toàn không có hiệu lực.

Để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình, như bạn nói hai bên mới đang làm thu tục thì bạn có thể yêu cầu chồng bạn thỏa thuận để định đoạt miếng đất là tài sản chung đó. Nếu chồng bạn vẫn cương quyết đơn phương chuyển nhượng quyền sử dụng của miếng đất đó thì bạn có thể làm đơn khởi kiện ra Tòa yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trái pháp luật giữa chồng bạn và bên kia. Thẩm quyền giải quyết việc tranh chấp về tài sản chung phát sinh trong thời kỳ hôn nhân thuộc Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có bất động sản theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 33 Bộ Luật Tố tụng dân sự.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.